Ông Trang Văn Mến, thủ Quỷ Ban Trị Sự PGHH/Miền Nam California
Trang Văn Mến
Kính thưa chư liệt vị , "Trong tháng năm, mùa kỷ niệm " với một cảm xúc dâng trào , thi sĩ Nhất Điện , một đồng đạo của, chúng ta đã viết :
"Cứ mỗi độ tháng năm ngày mười tám
Miền Thất Sơn xứ đạo rực hoa đăng
Triệu con tim rộn rã nhựa đầy căn
Đồng qui ngưỡng niềm tin về thánh địa
Và cứ thế tháng năm mùa khai đạo
Muôn lớp người từ vạn nẻo xa xôi
Từ đồng chua rừng lạnh mút lưng đồi
Như thác lũ đỗ xô về đại hội "
Và thật vậy, dù sống bất cứ nơi đâu, hằng năm cứ mỗi lần ngọn gió nam thổi mạnh, nước đồng bằng sông Cửu Long mang phù sa tràn bờ bồi đắp ruộng đồng bao la và ngọn mạ non mượt mà trườn mình trên sóng nước sông Tiền sông Hậu, là mỗi lần tín đồ PGHH ở miền Tây nói riêng và toàn thể tín đồ trên thế giới nói chung, đều xôn xao chào đón ngày Đại Lễ vì rằng:
"Tháng năm mười tám rõ rang,
Cùng xóm cuối làng ai cũng cười reo"
Ngày đó như một dấu ấn in đậm trong tâm khảm của tín đồ PGHH mà trong tâm thức của chúng ta đều nghĩ rằng đây là một ngày trọng đại với một ý nghĩa thật vô cùng to lớn, vì rằng một nền tôn giáo dân tộc đã được chuyển tải bằng những vần thơ mang âm hưởng những lời ru của mẹ trong những câu ca dao tục ngữ mà dân tộc ta đã tự hào trên bốn ngàn năm từ lúc nằm nôi được hình thành .
Bằng chứng là hôm nay, với hoàn cảnh lưu vong nơi xứ người, không có điều kiện để trở về nơi thánh địa Hoà Hảo mà quý vị cũng nhín chút thì giờ quý báu để đến đây chào mừng ngày Đức Huỳnh Giáo Chủ khai sáng ra nền đạo Phật Giáo Hòa Hảo.
Kính thưa quý vị, để có cái nhìn rõ nét hơn, chúng tôi xin sơ lược vài nét về tiểu sử của Đức Huỳnh Giáo Chủ . Ngài có tục danh là Huỳnh Phú Sổ và các tín đồ để tỏ lòng tôn kính thường gọi Ngài là Đức Thầy .
Ngược dòng thời gian , cách nay cũng gần trăm năm, Ngài giáng trần ngày 15/01/1920 nhầm ngày 25 tháng 11 năm Kỷ Mùi tại làng Hoà Hảo , quận Tân Châu , tỉnh Châu Đốc , một tỉnh thuộc miền Nam nước Việt . Ngài là trưởng nam của Đức Ông Huỳnh Công Bộ và Đức Bà Lê Thị Nhậm , một gia đình trung lưu theo đạo Phật có nhiều uy tín với dân địa phương lúc bấy giờ , như Ngài đã xác nhận :
" Theo Phật Giáo từ kim chí cổ . Gốc ông cha ta cũng tu hành "
Thưở nhỏ Ngài ốm đau liên miên nên đường học vấn dang dở , chỉ học đến hết bậc tiểu học mà thôi . Nhưng từ một thanh niên ít học, vương nhiều bệnh bổng nhiên Ngài trở nên đại ngộ và đến ngày 18/05 năm Kỷ Mảo (1939) Ngài đã :" vì thể lòng từ bi bác ái cùng thù đáp những linh hồn đã trợ duyên trong nhiều kiếp giúp Ta nương cậy tu hành nên ngày 18 tháng 5 năm Kỷ Mão .Ta hoá hiện ra đời cứu độ chúng sanh." Như lời Ngài đã thố lộ trong bài " Sứ mạng " và Ngài thêm rằng:
" Khai rừng kinh kệ câu huyền bí
Để cứu nhân sanh khỏi thảm sầu ."
" Đầu ngưỡng vọng đất trời minh chứng ,
Tấm lòng thành quyết dựng đạo đời ."
Nên:
" Ta thừa vưng sắc lệnh thế tôn
Khắp hạ giái truyền khai đạo pháp "
Ngài đã làm lễ cáo Hoàng Thiên , chánh thức mở đạo cứu đời , lúc ấy Ngài chỉ là một thanh niên 19 tuổi . Từ đó ngày này đã trở thành một ngày thiêng liêng trọng đại mà:
" Tháng năm Kỷ Mão đến nay
Khắp trong bá tánh gặp bài sấm kinh
Lời văn tao nhã hữu tình
Bởi vưng sắc lịnh Thiên Đình sai Ta "
Bước đầu là công việc trị bệnh , Ngài đã chữa lành được nhiều chứng bệnh hiểm nghèo nên tạo được rất nhiều sự tin tưởng trong quần chúng .
Nhìn lại bối cảnh lúc bấy giờ , xã hội Việt Nam đang rối ren trong sự cai trị bạo tàn của thực dân Pháp . ĐHGC đã tâm sự:
" Yêu nước đâu đành trơ mắt ngó
Thương đời chưa vội ẩn non cao."
Nên không thể liếc mắt làm ngơ trước cảnh quốc phá gia vong , nước nhà bị ngoại nhân xâm chiếm , cường quyền bạo hành , giết chóc đầy ải dân lành , làm cho bá tánh lầm than , nhân dân thống khổ mà ngồi yên lo việc tu hành . Lúc ấy phải rứt áo cà sa , khoát chiến bào để cứu dân cứu nước ; nhưng một khi công đã thành , nước nhà được bình yên trở lại thì phải trở về lo việc cày cấy sinh nhai tiếp tục tu hành , mong ngày đắc thành Phật quả , như Ngài đã dạy:
" Tăng sĩ quyết chùa am bế cửa
Tuốt gươm vàng lên ngựa xông pha
Đền xong nợ nước thù nhà
Thiền môn trở gót Phật Đà Nam Mô "
Trong khi ấy ,nhìn đời sống bên ngoài , ta thấy xã hội băng hoại bởi luân thường đảo lộn , đạo pháp suy đồi vì:
" Cảnh trần gian nhiều nổi lao lung
Việc tu tĩnh ít người hiểu lý. "
Ngài dẹp bỏ mê tín dị đoan và bằng lý trí để mà xét đoán:
" Nhìn Phật giáo mà tìm cái lý .
Coi tại sao ta phải tu hành"
Nên lấy:
" Trí minh mẫn nhìn xem các chuyện
Phải đừng cho lầm lạc nẽo tà "
Chớ:
" Đừng bạ đâu tin bướng nghe càn
Làm ngu muội đoạ thân uổng kiếp "
Hơn nữa lúc bấy giờ chữ Quốc ngữ nước ta đang ở trong giai đoạn phôi thai , những kinh sách Phật giáo không được dịch nhiều ra Việt ngữ như ngày nay, như Ngài đã nhận xét:
" Quá mắc mõ bởi chưng Phạn ngữ
Nên người đời khó kiếm cho ra "
Ngài đã lược giãn, đúc kết các yếu lý uyên thâm vi diệu của Phật Giáo bằng cách
" rút trong các luật các kinh " để rồi:
" Quyết dạy trần nên nói lời thường
Cho sanh chúng đời nay dể biết "
Giáo lý của Ngài rất đơn giản, đi ngay vào thực tế, khuyên dạy ngay trong đời sống luân lý gia đình, cách cư xữ giữa người với người trong xã hội, tửc là đem đạo vào đời bởi vì:
" Đời không đạo , đời vô liêm sỉ . Đạo không đời , đạo biết dạy ai "
Căn bản là " Tu Nhân học Phật "nên Ngài:
" Khuyên trai gái học theo Khổng Mạnh
Sách Thánh hiền dạy đạo làm người"
Ngài không chấp nệ về hình thức mà đặt nặng ở tấm lòng tức là chữ Tâm . Vì lấy chữ Tâm làm trọng nên việc tu hành của tín đồ PGHH cũng dễ dàng ,không cần đúng nguyên tắc ràng buộc khó khăn, tuỳ theo hoàn cảnh thực tế mà hành đạo như Ngài đã dạy:
" Tới với Ta chớ đem đồ cúng
Chỉ đem theo hai chữ thành lòng"
Hay là :" Phật chẵng qua dụng chữ tín thành
Chớ nào dụng hương , đăng , trà , quả"
Bởi mọi cử chỉ , hành động tốt xấu của con người đều phát xuất từ chỗ sâu kín trong tận đáy lòng, tức là nơi Tâm mà ra . Nên trong ta, bao giờ cũng có hai thái cực đối nghịch lẫn nhau. Hai thái cực đó là thiện và ác , chánh và tà , thánh và phàm , Tiên Phật hay Ma Quỷ ....
Nếu ta để cho tham , sân , si và những lọc lừa xảo quyệt lan tràn thì lúc đó ta là ma ,là quỷ ; bằng ngược lại nếu kìm hãm khắc chế những điều xấu thì lúc đó ta là Thánh là Tiên là Phật vậy nên ĐT đã dạy:
" Cái chữ tâm mà quỷ hay ma
Tiên hay Phật cũng là tại nó
Việc tu tĩnh biết làm chẵng khó
Nếu lặng tâm tỏ ngộ đạo mầu"
Nên hãy:
" Ráng tĩnh tâm dẹp được lòng tà , Thì được thấy Phật Tiên Thần Thánh "
Nghĩa là:
" Làm gian ác là Quỷ là Ma , Làm chơn chánh là Tiên là Phật"
Ngài chủ trương tu nhân học Phật, tức là muốn tu để được quả vị Phật trước hết phải hoàn thành nhân đạo và Ngài còn dạy:
" muốn làm tròn đạo Nhân, phải giử vẹn tứ ân nhưng trước hết phải tránh tam nghiệp và chừa thập ác , cũng như muốn làm giàu phải tránh đừng cho thiếu nợ " Bởi:" Nào là luân lý tứ ân
Phải lo đền đáp xác thân mới còn"
Và bốn cái ân lớn đó là:
1/ Ân tổ tiên cha mẹ.
2/ Ân đất nước
3/ Ân tam bảo.
4/ Ân đồng bào và nhân loại
Hay nói một cách khác tín đồ PGHH phải là một người con hiếu thảo với gia đình tổ tiên ông bà cha mẹ và còn là một công dân tốt trong một quốc gia dân tộc , một trò ngoan đối với Thầy Tổ và Tam Bảo , cuối cùng lả một người hữu ích cho nhân quần xã hội . Được như thế tức là đã hoàn thành giai đoạn tu nhân và chỉ cần bước thêm bước nữa là hoàn thành Phật đạo tức là tiến đến con đường giải thoát vậy.
Kính thưa quý vị ,dù cho:
" Quê người lưu lạc bao năm
Nhớ ngày Khai đạo tháng năm cùng về "
Theo sự mong mõi của ĐT:
" Cả kêu lớn nhỏ quày vìa
Trên hoà dưới thuận chớ lìa chớ phân"
Nên nhân ngảy khai sáng nền đạo PGHH năm nay, chúng tôi cùng quý vị suy ngẫm về công đức sâu dầy của đấng Tôn Sư cùng những lời giáo huấn của Ngài để cố gắng lo tu hành tinh tấn bằng cách chúng ta hãy dang rộng vòng tay , đùm bọc lẫn nhau và nhất là:
" thương yêu lẫn nhau như con một cha, dìu dắt lẫn nhau vào con đường đạo đức, nếu ai giữ đặng trọn lành trọn sáng về nơi cỏi Tây Phương an dưỡng mà học Đạo cho hoàn toàn đặng trở lại cứu vớt chúng sanh" như ĐT đã chỉ dạy, hầu thực hiện một:
" Ước mơ thế giới lân Hoà Hảo
Nhà Phật con Tiên hé miệng cười"
Trước khi dứt lời , một lần nữa xin cám ơn chư liệt vị đã lắng nghe bài nói chuyện của chúng tôi hôm nay, và xin chúc quý vị cùng bửu quyến luôn thân tâm an lạc, đạo quả viên dung.
Trận trọng kính chào chư liệt vị .
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô A Di Đà Phật .