RÈN TRÍ HUỆ

20 Tháng Hai 20179:19 CH(Xem: 18805)
RÈN TRÍ HUỆ

Ba Lia cuoi

                                                                                                      Nguyễn Văn Lía

Phàm con người muốn vượt qua sông biển để đến bờ bên kia, tất phải có thuyền bè mới qua đặng. Người tu Phật, muốn sang qua bên giác, đến cõi tịch mịch Niết bàn, lướt khỏi sông mê bể khổ, khỏi màn vô minh u tối, cần phải có trí huệ. Vì trí huệ là thuyền bè. Nhà Phật gọi là thuyền bát nhã,  là ngọn đèn soi sáng lối đi trong đêm tối, để hành giả khỏi lầm đường lạc nẻo.Về điều nầy Đức Huỳnh Giáo Chủ có minh giải :

“Trời đã hoàng hôn mau chợt tỉnh,

  Tầm đường trí huệ lánh thân ra.”

Vậy trí huệ là gì?

Trí huệ là sự hiểu biết sáng suốt cùng tột của bản tâm. Trí huệ có thể chia ra làm hai phần:

-Một là thế trí biện thông, nghĩa là cái trí khôn hiểu biết của loài người, do sự học hỏi mà biết, đây thuộc về phạm vi tương đối.

-Hai là trí “Bát Nhã”, nghĩa là trí huệ tuyệt luân rỗng thông sáng suốt cả vũ trụ vạn hữu, biết rõ mọi việc từ quá khứ, hiện tại và vị lai không có gì ngăn ngại, không còn gốc vô minh phiền não, mà là thanh tịnh diệu mầu.

Khi người tu chứng đặng trí huệ sáng suốt, khác nào màn sương lúc tàn canh được ánh thái dương chiếu phá, bóng tối được thay vào ánh sáng; hoặc như lưỡi gươm sắc bén có diệu năng tiêu diệt được thất tình lục dục, thảnh thơi an dưỡng trong thể cánh tiêu dao. Đức Thầy cho biết:

“Thập tam ma diệt bằng trí kiếm ,

  Dứt xong rồi vô sự thảnh thơi.”

Và phá vở bao thành trì ngã chấp, đắm mê dục vọng và sau hết sẽ chứng thành Phật quả. Đức Thầy cho biết:

 “Kiếm huê phi tiêu đoàn chướng nghiệp,

   Phật tiền hữu nhựt vĩnh an nhiên.”

Trái lại, người tu không có trí huệ sẽ lạc vào tà kiến mê lầm, nhận ngụy làm chơn, nhận tà làm chánh làm cho tâm trí u tối càng ngày càng u tối thêm lên, gây bao tội lỗi trong hiện tại, sau cùng phải trầm luân trong cõi ta bà mãi mãi. Đức Thầy khẳng định:

“Màn vô minh che mờ tâm trí,

  Nên thường khi nhận ngụy làm chơn.”

Gương anh chàng VÔ NÃO đã thực chứng cho vấn đề này, về hành động ngông cuồng vô ý thức không sáng suốt của ông ta. Nếu không nhờ Đức Phật Thích Ca dùng phương tiện thức tỉnh độ rổi thì đã vung đao giết người mẹ hiền đức và phạm thêm muôn vàn tội ác.

 

 

 

Đó cũng do sự vô minh tăm tối, không có trí huệ. Đức Thầy đã thức tỉnh chúng ta :

“Bị vô minh vọng tưởng vạy tà,

  Nên quay lộn ta bà cõi khổ.’

Như trên, chúng ta đã biết tai hại của vô minh, của sự không có trí huệ. Vậy muốn có trí huệ để vẹt phá tất cả sự mê mờ tăm tối ta phải làm sao?

Căn cứ vào yếu pháp của Đức Thầy, chúng ta cần phải thực hành theo tám điều chánh, hầu phá vỡ những gì phiền toái đang bao phủ trí căn. Trong Môn hoàn diệt, Ngài có dạy rằng: “Nếu ta tìm con đường bát chánh đạo của Phật mà đi, giữ tâm thanh tịnh làm việc nhơn từ, không lòng hờn giận, chẳng dạ ghét ganh, chuyên tâm niệm Phật, giúp thế độ đời, đừng chứa đều phiền não và để bụng tham lam ích kỷ, gây mối thiên duyên lần lần trí huệ mở mang cõi lòng sáng suốt, màn vô minh sẽ bị diệt mất”

Ngoài tám con đường chánh vừa kể, để diệt trừ vô minh, rèn trí huệ, còn có phương pháp trừ tham, sân, si để được trí huệ vậy. Vì có nghiêm thủ theo giới luật, không để tâm phóng túng theo nghiệp trần thì bản tâm được an định, nếu tâm được vắng lặng định yên thì có khác nào “Gió cuốn mây đen về biển cả, Một vầng trăng sáng giữa trời xanh” (1); làm gì mà huệ nhựt không hiện bày, minh châu không xuất hiện, trí huệ không phát sinh, cõi lòng không rỗng thông sáng suốt. Một Cố đức Thiền sự có dạy rằng: “Giái năng sanh định, định năng sanh huệ, huệ tắc minh tâm, minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật”. Đến chừng đó chúng ta có thể thiệt thi tâm hạnh lợi tha giác chúng, bằng cách, theo như Đức Thầy đã dạy:

“Thuyền bát nhã ta cầm tay lái,

  Quyết đưa người khỏi bến sông mê”.

Tóm lại, trong sáu phép Ba la mật, trí huệ nó là món sau cùng cũng là món đầu tiên (2) chính là chiếc thuyền rốt ráo có công năng đưa người khỏi biển trần luân sang bờ giải thoát. Muốn rèn trí huệ diệt được vô minh, ta cần nương theo tám con đường chánh hoặc thợ hành pháp : giới, định, huệ tất nhiên sẽ đến bờ bên kia vậy.

Để kết thúc đề tài trí huệ, ta hãy lắng nghe lời Đức tôn sư dạy bảo cô năm Võ Thị Hợi và chúng ta với câu nói ngắn gọn: “Trí huệ trau giồi kiếm nẻo thanh”.

 

                                                                                                          

------------------------------------------------------------------------------------------------------

(1) “Vô hạn dã vân phong quyển tận

  Nhứt luân cô nguyệt chiếu thiên tâm”   (Ngài Xuyên thiền sư).

(2) Số thứ tự có thay đổi là do Tiệm giáo và Dốn giáo mà ra.


IMG_7733

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18 Tháng Ba 201312:00 SA(Xem: 21983)
Nhẫn nghĩa là gì? Nhẫn là nhường, nhịn, dằn lòng xuống (nhẫn nhịn), cố-gắng chịu đựng (nhẫn-nại), bền chí, không nóng-nảy, nãn lòng (kiên-nhẫn), cam chịu nhục để đạt mục-đích nào đó (nhẫn-nhục),...
11 Tháng Ba 201312:00 SA(Xem: 14730)
Đức Huỳnh Giáo Chủ chỉ dạy:“…Các người nên hiểu biết phận-sự con người phải làm gì trong kiếp sống và tìm kiếm chân tánh của mình
11 Tháng Ba 201312:00 SA(Xem: 16695)
Trong việc tu học, với biết bao kinh sách, nghiên cứu, sưu tập… cùng muôn vạn pháp mà chư Phật đã giáo hóa, nhằm giúp tìm về với Tâm, là bản thể thanh tịnh và là sự giải thoát.
18 Tháng Hai 201312:00 SA(Xem: 33533)
Hầu hết chúng sanh đều có căn lành tánh thiện. Nhưng do vô minh huân tập che khuất tự tánh lành, lại theo tà vọng lôi cuốn, hiệp với Ác Nghiệp: Tham lam, Sân nộ, Mê si mà che khuất đi Bổn Lai Diện Mục của mình.
10 Tháng Giêng 201212:00 SA(Xem: 14746)
Trương Văn Thạo- Phần đông, chúng ta nhờ học hỏi mà hiểu biết ít nhiều về Giáo Lý Phật Giáo Hòa Hảo. Tuy nhiên, chúng ta vẫn chưa hiểu đầy đủ ý nghiã của chữ Pháp thân và Pháp thí, đặc biệt là của Đức Huỳnh Giáo Chủ.
10 Tháng Giêng 201212:00 SA(Xem: 44016)
Hình Danny, Melbourne, Úc Châu; bài Truong Văn Thạo, Texas, Hoa Kỳ. Theo Hán tự, BÁT NHẪN (八忍) nghĩa là Tám điều nhẫn nhịn, gồm có: Nhẫn năng xử thế, Nhẫn Giái, Nhẫn Hương lân, Nhẫn Phụ mẫu, Nhẫn tâm, Nhẫn tánh, Nhẫn đức, Nhẫn thành.
100,000