Quyết định hợp với truyền thống lịch sử, tín ngưỡng và hoàn cảnh của người Việt hải ngoại
Phạm Cao Dương
Quyết định mà tôi nói tới ở đây là quyết định dựng tượng Đức Thánh Trần ở Little Saigon. Tôi không rõ trên giấy tờ liên lạc với Tòa Thị Chính thành phố Westminster ban tổ chức đã dùng danh xưng của tượng là gì nhưng ở đây tôi vẫn dùng danh xưng là Tượng Đức Thánh Trần. Tôi dùng danh xưng Đức Thánh Trần là vì đây là danh xưng mà quảng đại dân gian Việt Nam từ Bắc chí Nam và bây giờ ở hải ngoại dùng để vừa tôn kính vừa yêu thương, gần gũi hơn thường gọi ngài thay vì các danh xưng Hưng Đạo Vương và ngay cả Trần Hưng Đạo dùng nhiều hơn trong học đường và trong sách vở. Có nhiều lý do tôi xin được trình bày trong bài viết này.
Đức Thánh Trần là nhân vật lịch sử duy nhất được dân gian coi là đã hiển linh che chở giúp đỡ mọi người, chống lại tà ma quỷ quái, từ đó được mọi người coi như một vị Thánh của cả dân tộc
Các
nhân vật lịch sử như Hùng Vương, Hai Bà Trưng, Triệu Quang Phục, Lý Thường Kiệt, Lê Thái Tổ, Quang Trung,... tất cả đều có đền thờ và được dân chúng địa phương quanh năm hương khói, đến ngày kỵ đều được các quan
lại địa phương hàng năm chính thức đến tế. Chỉ riêng có Trần Hưng Đạo ngoài đền thờ còn được coi là đã hiển linh để phù hộ, giúp đỡ đồng bào của mình, che chở mọi người chống lại tà ma, quỉ quái. Đức Thánh Trần với các con trai và các gia tướng của ngài như Yết Kiêu, Dã Tượng luôn luôn được truyền tụng là đã hiển linh trong các công tác này. Những chuyện như Phạm Nhan chuyên môn tìm ăn máu dơ của phụ nữ làm cho họ mắc bệnh, mảnh chiếu lấy từ đền thờ của ngài là những chuyện phổ thông trước
đây ai cũng biết.
Một sự kiện liên hệ khác ít ai biết tới là sự
hiển linh của Đức Thánh Trần và sự tin tưởng của quần chúng vào sự hiển
linh này đã đưa tới sự hình thành của một tôn giáo mới của người Việt gọi là Nội Giáo. Nội Giáo là tôn giáo từ bên trong để phân biệt với Ngoại Giáo du nhập từ bên ngoài mà ngài là vị thần chính được thờ. Nội Giáo là tôn giáo riêng của người Việt Nam, của nước Việt Nam độc lập. Sự xuất hiện của Nội Giáo với Thánh Địa là Đền Kiếp Bạc đã nói lên tinh thần độc lập của người Việt cho tới thời ngài chưa có. Cùng
với Thánh Mẫu Liễu Hạnh, một trong “Tứ Bất tử” (1) của người Việt, ngài
được thờ như vị Cha chung của cả dân tộc:
Tháng Tám giỗ Cha, Tháng Ba giỗ Mẹ.
Tháng
Tám âm lịch từ ngày 16 đến ngày 18 là ngày giỗ Đức Thánh Trần và trong 10 ngày từ 1 đến 10 Tháng Ba âm lịch là Ngày Hội Phủ Giầy ở làng Tiên Hương, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, là ngày giỗ Chúa Liễu Hạnh, hai ngày
hội lớn được rất đông người tới dự trước kia, trước thời chiến tranh và
luôn cả hiện tại. Hội Phủ Giầy được tổ chức hàng năm là hội lớn nhất, vui nhất, có nhiều trò chơi nhất của người Việt. Con số người tham dự càng ngày càng gia tăng, gia tăng gấp bội so với thời Pháp thuộc, trong đó có rất đông các cán bộ Cộng Sản đi xe con tới dự.
Chưa hết, song song với truyền thống thờ Đức Thánh Trần và Chúa Liễu Hạnh, người Việt Nam còn có tục lên đồng. Nếu Đức Thánh Trần và Chúa Liễu Hạnh chỉ được chính thức thờ ở các đền thì trong dân gian, các ngài được thờ ở rải rắc khắp nơi qua các đền miễu do các cộng đồng địa phương lớn nhỏ, do tư nhân xây dựng và được các ông bà đồng coi giữ. Nơi đây các cuộc lên đồng thường xuyên được thực hiện, kể cả hiện tại ở Westminster, ở Garden Grove ở hải ngoại mà người viết đã có dịp nhiều lần tới dự và rất
vui khi thấy một tín ngưỡng xưa, có thời bị bài bác, nay lại sống lại ở
hải ngoại. Chính ở những nơi này, lịch sử của dân tộc Việt Nam, đúng hơn những bài dã sử, đã được gìn giữ xuyên qua những bài hát chầu văn, một thứ văn chương, âm nhạc vô cùng phong phú cho tới nay chưa được sưu tầm, nghiên cứu, tìm hiểu đầy đủ và tường tận.
Người Tàu và người Hy Lạp khi rời bỏ quê hương ra đi tị nạn cũng đã mang theo thần linh của họ
Cuối
cùng, sự kiện các dân di cư tị nạn khi ra đi đã mang theo các thần của mình là một sự kiện đã xảy ra từ lâu trong lịch sử nhân loại. Dân Hy Lạp
trong các thế kỷ thứ bảy và thứ tám kéo dài đến hết thế kỷ thứ năm trước Thiên Chúa, khi có những cuộc tranh chấp nội bộ ở các đô thị-quốc gia, những city-states, những polis,
của họ, điển hình là hai đô thị Athens và Sparta, các phe bại trận bị loại trừ (ostracized, ostracism) phải bỏ xứ mà đi. Họ đã tạo nên một đường viền Hy Lạp chung quanh Địa Trung Hải với những quốc gia-đô thị, những polis
mới ở Nam Âu, ở Tây Á và luôn cả ở Phi Châu. Khi ra đi họ đã mang theo văn minh Hy Lạp và đặc biệt là các thần linh Hy Lạp của họ. Với những yếu tố văn minh, văn hóa và đặc biệt là tín ngưỡng này, những đô thị-quốc gia mới của họ, mặc dù vẫn giữ được những liên hệ lịch sử,văn minh và văn hóa, đã trở thành hoàn toàn độc lập với các đô thị-quốc gia mẹ, đã tự mình đứng vững và phát triển, không còn bị các quốc gia-đô thị mẹ chi phối về phương diện chính trị và sinh hoạt hàng ngày nữa.
Người
Tầu khi di cư ra khỏi quê hương của họ cũng làm những việc tương tự. Bằng chứng là các “chùa Tầu” đã hiện diện ở khắp thế giới và ở miền Nam Việt Nam rất nhiều, đặc biệt là ở Saigon. Tất cả đã trở thành nhũng nơi thăm viếng mà du khách khi tới Saigon đều phải biết và ít nhiều ghé qua.
Chính người viết bài này hồi trước năm 1975, khi dẫn sinh viên đi du khảo quanh vùng Thủ Đô Saigon, cũng đã ghé thăm những nơi này. Điều đáng
để ý là những nơi này luôn luôn có nhiều khách hành hương tới viếng trong đó rất đông là người Việt. Nơi đây khói hương ngày đêm nghi ngút, không bao giờ tàn lạnh.
Dựng tượng Đức Thánh Trần không chỉ là để tôn vinh một vị
anh hùng có công ơn bậc nhất của cả dân tộc mà còn biểu lộ tinh thần độc lập của Người Việt hải ngoại là chỗ dựa tinh thần của người Việt
Cho
tới nay, Cộng Đồng người Việt ở hải ngoại đã được gần tròn 40 tuổi, đã trải qua giai đoạn sống còn, đã mỗi ngày mỗi thêm vững mạnh về đủ mọi phương diện để trở thành thành phần thứ hai độc lập với thành phần thứ nhất của dân tộc Việt Nam.
Cộng Đồng hải ngoại của chúng ta trẻ
trung hơn, năng động hơn, có tiềm năng hiểu biết cập nhật hơn, có nhiều
khả năng phát triển hơn nhờ đã hình thành và phát triển trong những quốc gia tân tiến nhất trên thế giới, so với thành phần thứ nhất mỗi ngày già cỗi hơn, mòn mỏi hơn, kiệt lực hơn, không còn đủ khả năng nhận thức và ngay cả sử dụng những khả năng trí tuệ vẫn còn không ít của mình. Tuổi trẻ Việt Nam ở hải ngoại có thể vào và đã vào bất cứ một đại học danh tiếng nào nếu các em mong muốn và được cha mẹ khuyến khích. Rất
đông các em đã đạt được điều này. Cộng Đồng Việt Nam hải ngoại đã tự mình hội đủ mọi điều kiện để tự đứng vững. Chúng ta đã có đầy đủ nếu không nói là khá đông các chuyên viên trí thức thượng thặng từ các khoa học gia, các giáo sư đại học, các học giả tốt nghiệp từ các học viện lớn
và hiện đang phục vụ trong các trung tâm, các viện nghiên cứu bậc nhất trên thế giới để góp sự hiện diện của mình với các sắc tộc khác. Chúng ta cũng đã có những chỉ huy cao cao cấp trong quân đội, kể cả tướng lãnh. Hãy tưởng tượng hình ảnh một vị chỉ huy dẫn đầu nhiều ngàn sĩ quan, binh sĩ dưới quyền, thuộc đủ mọi thành phần, chủng tộc, dẫn đầu các cuộc thao diễn, dẫn đầu họ chạy bộ hàng ngày hay nghiêm chỉnh chào cờ trong căn cứ của đơn vị mình. Vị chỉ huy đó là người Việt. Anh là vị tướng đi sát với binh sĩ của mình, tướng của trận mạc, không phải tướng của phe phái, nói cách khác, tướng cảnh. Con em của chúng ta đó! Hãnh diện biết là chừng nào! Chúng ta cũng có những chỉ huy trưởng khu trục hạm tối tân nhất của Hải Quân Hoa Kỳ, những nữ đại tá người nhỏ thó chỉ đứng đến nách những đồng sự hay thuộc cấp của mình nhưng vẫn được họ chào kính một cách trịnh trọng. Họ cũng là con em của chúng ta đó. Hãnh diện biết là chừng nào! Họ thuộc thế hệ một rưỡi, luôn cả thế hệ thứ hai
của tị nạn Việt. Tất cả đều vẫn còn thông thạo tiếng Việt, đã trả lời dễ dàng, trôi chảy các cuộc phỏng vấn bằng tiếng Việt. Tất cả đều đã trở
thành “người,” đã “nên người,” đã lập được sự nghiệp trên quê hương mới
mà không cần tới sự trợ giúp của các “đỉnh cao trí tuệ của loài người.”
Chưa hết! Bây giờ thì họ đã ngồi lại với nhau để trở thành một lực lượng quân nhân gốc Việt trong quân đội Hoa Kỳ và sẽ dẫn đường cho thế hệ thứ ba. Cầu mong các em sẽ thành công mỹ mãn. Trong địa hạt chính trị, người Việt nay cũng đã đi rất sâu và rất cao trong hệ thống chính quyền của nhiều nước, ở đủ cả ba ngành, ngay cả ở cấp trung ương. Nhiều người trẻ cũng đã xuất hiện và đã thành công xuất sắc. Họ thông thạo ngôn ngữ, được học, được sống và hiểu biết về xã hội nơi họ đang cư ngụ.
Họ bắt đầu thay thế cho thế hệ cha anh đã đến tuổi xế chiều, nhưng vẫn hiểu biết về Việt Nam và thông thạo tiếng Việt. Trong tương lai, các em sẽ còn đi xa và lên cao hơn nữa.
Sang một địa hạt khác gần gũi với mọi người hơn là địa hạt giáo dục. Ở đây tôi chỉ nói vế các cấp trung tiểu học và mẫu giáo, những cấp học cơ bản liên hệ trực tiếp tới các em nhỏ của chúng ta trong cộng đồng. Con số những thày cô giáo người
Việt hiện diện trong các trường địa phương mỗi ngày một nhiều. Nghề làm
thầy cô giáo không còn bị chê so với các nghề khác như trong những thập
niên đầu. Nhiều người tỏ ra đã yêu mến nghề dạy học ngay từ khi còn học
ở bậc trung và luôn cả tiểu học. Họ đã đạt được ước vọng và sau nhiều năm hành nghề vẫn tỏ ra yêu nghề hơn bao giờ hết. Nhiều người đã chuyển sang cấp chỉ huy làm hiệu trưởng, phó hiệu trưởng các trường khi chán phụ trách lớp. Nên nhớ là, ít ra là ở Mỹ, dạy ở cấp nào cùng được coi là
quý, là trọng, không nhất thiết là ở bậc đại học, nơi kiếm được một chỗ
làm rất khó vì rất hiếm, cạnh tranh giữa các sắc dân Á Châu rất nhiều, bè cánh phe phái rất nhiều. Điều quan trọng là ở chính mình và hạnh phúc
của chính mình.
Để hướng về các con em nhỏ trong cộng đồng, riêng ở miền Nam California hàng trăm trung tâm Việt Ngữ đã được thành lập ở các chùa, các nhà thờ hay các lớp mượn của các trường địa phương trong những ngày cuối tuần do các thày cô đã về hưu hay các sinh viên đại học phụ trách. Hàng ngàn thày cô đã tham gia công tác này với hàng chục ngàn trẻ em được cha mẹ mang tới dự. Hãy tưởng tượng các vị này đã kiên trì, cố gắng như thế nào để cứ tình nguyện mỗi cuối tuần mỗi đến, tuần này qua tuần khác, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác, thường xuyên dạy các em, không nửa chừng bỏ dở. Họ âm thầm làm công việc
của mình và dường như ít được cộng đồng biết đến, thăm viếng và khích lệ.
Cộng đồng của chúng ta đã độc lập, đã tự đứng vững và phát triển trong suốt 39 năm qua không hề phải nhờ vả vào chính quốc. Trái lại, hàng chục tỷ đô la hàng năm đã được gửi về làm giàu cho các cán bộ và các đại gia ở trong nước. Có điều thay vì để yên cho thành phần thứ hai của dân tộc này phát triển để hỗ trợ lẫn nhau, cùng nhau song song phát triển, cùng hưởng thì các “đỉnh cao trí tuệ” ở trong nước đã coi nó
như một con gà đẻ trứng vàng, tìm cách ảnh hưởng tới nó, bắt nó đẻ nhiều hơn, thậm chí bắt và giết nó. Riêng trong phạm vi dạy tiếng Việt có người còn cổ võ đưa các thầy ở trong nước ra dạy ở các trường hải ngoại. Cổ võ nhưng vị này không hề quan tâm đến tình trạng suy đồi thậm tệ của tiếng Việt ở ngay chính trong nước mà rất nhiều bài thuyết trình,
khảo cứu đã được phổ biến trong nhiều cuộc hội thảo ở khắp nơi trên thế
giới, ở Mỹ. ở Canada, ở Úc, ở Pháp, trên báo chí, truyền thanh, truyền hình, trong những năm qua. Tiếng một thời được coi tiêu chuẩn là tiếng của người Hà Nội bây giờ không còn nữa. Người Hà Nội bây giờ nói thứ tiếng gì, khó mà định nghĩa hay ít ra là kiếm một tên gọi. Người ta bảo đó là tiếng Kẻ Noi, do các lãnh đạo Cộng Sản ít học từ Nghệ An, Thanh Hóa ra, mang theo đồng hương của họ, tràn ngập Hà Nội hồi sau năm 1954. Họ nói tiếng nói của họ và vì họ có quyền, có lực nên mọi người bắt chước. Giải thích này chẳng biết có đúng hay không nhưng có một điều là người viết bài này trong một dịp nói chuyện với các sinh viên Đại Học Cornell đã được hai nữ sinh viên từ Hà Nội sang học lấy bằng tiến sĩ tới
nghe. Cuối buổi thuyết trình, hai cô lên nói cho người viết biết là “Lâu lắm chúng cháu mới được nghe người Hà Nội nói.” Câu nhận xét làm tôi ngạc nhiên vì tôi là người gốc Nam Định chứ không phải là người Hà Nội, nhất là người Hà Nội của thời các cụ Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim, các nhà văn trong Tự Lực Văn Đoàn hay các nhà văn khác,... đã mài mòn gót giày trên các đường phố của thủ đô thanh lịch này hồi đầu thế kỷ trước hay thời trước năm 1954. Gần đây hơn nữa là ở ngay trong nước, chỉ ít năm trước đây, nhà cầm quyền giáo dục đã đưa ra quyết định huấn luyện lại các thày cô không phân biệt được hai phụ âm “l” và “n” mà trong nước gọi là “lờ” “nờ.”
Người viết bài này cũng được đài quốc tế Pháp, RFI, phỏng vấn về vấn đề này. Nên nhớ rằng không chỉ có chuyện phát âm mà ngay cả trong ngữ vựng và cách đặt câu, tiếng Việt ở trong nước “có rất nhiều vấn đề.” Nó đã càng ngày càng trở nên nghèo nàn, thiếu chính xác, thiếu trong sáng, thiếu lịch sự, thiếu thanh nhã của tiếng Việt thời xưa. Không biết rằng khi cổ võ cho việc đem thày cô ở trong nước ra Hải Ngoại dạy hay đem các thày cô ở ngoài này về học thêm ở trong nước, nhân vật đang là đề tài bàn tán trong Cộng
đồng Hải Ngoại, vị này, một giáo sư dạy ở hai đại học trong vùng, có hiểu và theo dõi kỹ thường xuyên và đầy đủ tình trạng tệ hại của tiếng Việt ở trong nước, nói riêng hay tình trạng bi thảm của nền giáo dục ở trong nước hay không mà lại vội vã như vậy. Không lẽ ông làm như vậy là để làm vừa lòng những người đã đón tiếp ông và giúp đỡ ông trong những chuyến về Việt Nam của ông? Nhưng có nhiều phần ông đã không theo dõi và
không hiểu vì ông chỉ yêu thích và lo dạy học trò của mình mà không làm
công việc này. Nếu thế thì ông đã quên hay không biết là dầu cho đã được huấn luyện theo đúng quy mô trong ngành của mình, các giáo sư đại học ở đâu cũng vậy phải luôn luôn cập nhật hóa các kiến thức chuyên môn và điều mình dạy, không thể cứ lập đi lập lại những bài đã dạy khóa này qua khóa khác, năm này qua năm khác. Chỉ nhìn vào các syllabi và bản tiểu sử các vị giáo sư hay giảng viên cập nhật hóa hàng năm hay cả hàng mỗi khóa là người ta thấy được điều này. Họ đã dạy cả đời và đã học cả đời. Lý tưởng của họ là nghiên cứu và dạy học không phải là quyền lực hay tiền bạc, danh vọng.
Trong một bài viết trước đây, nhằm kỷ niệm một ngàn năm Lý Thái Tổ từ Hoa Lư thiên đô ra Thăng Long, đăng trong Tập San Thế Kỷ 21, số 1, số ra mắt, người viết có đưa ra cái nhìn hơi bạo về lịch sử của dân tộc Việt Nam. Đó là lịch sử phải được tính bằng ngàn năm với ba dấu mốc chính: 111 trước Tây Lịch, 1010 sau Tây Lịch và những năm hiện tại của thiên niên kỷ thứ ba mà chúng ta đang sống, chứ không thể chỉ bằng chục năm, bằng trăm năm như lịch sử bình thường. Nhìn như thế để chúng ta có thể thấy những điều vô nghĩa mà nhiều người đã và đang làm. Nhìn như thế đế chúng ta có thể lạc quan về tương lai của dân tộc Việt Nam qua sự hình thành của Cộng Đồng Người Việt ở hải ngoại trong hai thế kỷ 20 và 21 này.
Sự hình thành của Cộng Đồng Việt Nam hải ngoại coi như thành phần thứ hai của dân tộc là một cơ hội ngàn năm một thuở chúng ta có được, sau khi người dân Việt
Nam đã phải trải qua nhiều chục năm dài đầy chiến tranh, đau thương, chết chóc và bất hạnh. Biến cố bi thảm 1975 đã bẩy tung bà con chúng ta ra khắp thế giới để rồi sau ngót bốn mươi năm bà con Người Việt Hải Ngoại đã định cư và thành công ở khắp năm châu, không nơi nào là không có. Chúng ta đã không có được một lãnh thổ duy nhất, một chính quyền chung nhưng chúng ta có những con người, có chung một lịch sử, một nguồn
gốc, đã ra đi trong cùng một hoàn cảnh, một thời điểm. Nói một cách khác, chúng ta đã có một Siêu Quốc gia Việt Nam không có lãnh thổ, không
có chính quyền, không có thủ đô nhưng tất cả đều nằm sâu thẳm trong lòng mọi người dân của nó. Một siêu quốc gia như vậy thích hợp hơn với sinh hoạt quốc tế trong thời hiện tại, thời mà biên giới giữa các nước đã mờ dần trước sự phát triển chung của cả nhân loại. Cũng nói cách khác, nếu trong thế kỷ 19, một học sinh người Anh được học rằng “Mặt trời không bao giờ lặn trên Đế Quốc Anh” thì khác đi một chút, kể từ thế kỷ 20, một học sinh Việt Nam phải được học rằng “Từ sau năm 1975, mặt trời không bao giờ lặn trên những miền đất có người Việt Nam cư ngụ.”
Người Tầu cũng có thể nói câu tương tự. Họ cũng hiện diện ở khắp nơi trên thế giới nhưng vẫn không thể so sánh với người Việt. Lý do là vì người Tầu bỏ nước ra đi là họ chọn tha phương cầu thực, do họ chọn lựa còn người Việt thì không được chọn lựa.
Sau ba chục năm triền miên đầy đau thương giết chóc với ít ra là bốn năm triệu người đã bị hy sinh, nước mắt tràn ngập khắp Trường Sơn ra tận Biển Đông. Họ đã bất đắc dĩ phải ra đi mà không biết sẽ đi đâu. Đến bây giờ thì tự mình và với sự giúp đỡ của chính quyền và người địa phương, bất chấp những sự dè bỉu, mỉa mai của nhà cầm quyền ở trong nước trong những năm đầu, các cộng đồng Việt Nam ở khắp nới trên thế giới đã trở thành vững mạnh thực sự so
với thành phần còn lại ở trong nước. Bổn phận của chúng ta là phải bảo vệ và phát triển nó. Chúng ta không thể để cho những người đang nhận sự giúp đỡ vô cùng to lớn của cộng đồng chúng ta, coi cộng đồng chúng ta là
con gà mái đẻ trứng vàng bắt nó đẻ nhiều hơn, đẻ mãi, lợi dụng và giết nó. Chúng ta cũng phải lo cho chính chúng ta và con cháu chúng ta. Chúng
ta đang sống ở đây và sẽ chết ở đây. Con cháu chúng ta cũng vậy. Những thế lực luôn luôn gây bất ổn từ non bảy mươi năm qua sẽ không tha chúng ta, không để cho chúng ta yên. Họ luôn luôn muốn làm chủ chúng ta rồi làm chủ con cháu chúng ta như họ đã làm ở trong nước, bây giờ là Cộng Đồng Người Việt ở hải ngoại, cơ hội ngàn năm một thuở của chung cả dân tộc, cơ hội sẽ đưa dân tộc ta thoát khỏi tình trạng nhỏ bé và chậm tiến.
Bất cứ hành động nào phá hoại Cộng Đồng Việt Nam hải ngoại đều là một tội đại ác đối với dân tộc. Có điều họ sẽ bất cần, sẽ tiếp tục như họ đã
làm trong quá khứ như các năm 1954, 1975. Nhưng họ sẽ không làm gì được
chúng ta. Chiêu bài độc lập thống nhất không còn hiệu nghiệm nữa.
Cộng Đồng của chúng ta đã vững mạnh và luôn luôn được các nhà cầm quyền bản xứ che chở. Chúng ta cũng đã có đủ mọi khả năng để tự mình đứng vững, nhất là kể từ bây giờ, với sự phù hộ ngày đêm của Đức Thánh Trần và bên cạnh ngài là Chúa Liễu Hạnh. Chúng ta không cần phải có sự giúp đỡ từ bên ngoài, nói trắng ra là từ những người này. Phạm Nhan đã bị chém đầu từ bảy thế kỷ trước tuy vẫn còn lảng vảng khắp nơi để kiếm máu dơ của phụ nữ nhưng y sẽ không làm gì được chúng ta vì chúng ta đã có Đức Thánh
Trần và Chúa Liễu Hạnh luôn luôn hiển linh và che chở cho chúng ta. Chúng ta hãy cùng nhau giữ cho tượng ngài quanh năm sạch sẽ và nếu có, hương khói lúc nào cũng nghi ngút, để trở thành một thắng tích bất cứ ai
ghé Little Saigon đều phải ghé qua để tỏ lòng tôn kính ngài.
Để kết luận, tôi mượn chữ và ý của Nhà Văn Ngô Nhân Dụng (2). Chúng ta đã đứng vững ít ra là hai ngàn năm và chắc chắn sẽ còn đứng vững thêm nhiều ngàn năm
nữa. Vấn đề là do chúng ta. Chúng ta đã khơi lại được mạch sống của bảy
trăm năm trước. Chúng ta có sống lại được với sức sống do tiền nhân truyền lại cho chúng ta hay không? Điều này tùy thuộc ở chính chúng ta. Chúng ta sẽ coi quyền lực, danh lợi tiền bạc của cá nhân hay phe nhóm là
trọng hay sự tồn vong của cả dân tộc là trọng. Đó là tùy thuộc chúng ta. Những người đang sống trên đất mẹ của chúng ta xem ra khó mà làm được điều này vì dù có muốn họ cũng không làm được và không được phép làm và cũng vì tất cả đều đã quá mòn mỏi, khô cằn, nếu không nói là kiệt
lực. Tất cả chỉ còn trông cậy ở chúng ta và con cháu chúng ta.
(Little Saigon những ngày chớm Thu 2014)
Chú thích:
(1) Ba vị kia là Tản Viên Sơn Thần (Thần núi Tản Viên), Phù Đổng Thiên Vương và Chử Đồng Tử.
(2) Qua tác phẩm Đứng Vững Ngàn Năm của ông, Người Việt xuất bản.