Lễ Kỷ Niệm ngày Đức Huỳnh Giáo
Chủ Ra Đi vào 10 giờ 30 sáng Chủ Nhật 23-3-2014
tại Hội Quán PGHH Nam California, Santa
Ana .
DẶN-DÒ BỔN-ĐẠO
của Đức Huỳnh Giáo Chủ
viết tại làng Hòa-Hảo, lối tháng 2
Canh-Thìn, 1940
Tháng năm mười tám rõ-ràng,
Cùng xóm cuối làng ai cũng cười reo.
Xuống trần nhằm buổi nạn eo,
Gẫm trong dân-sự còn nghèo chữ tu.
Hạ-nguơn sanh-chúng ám-u,
Tây-Phương sắc lịnh vân-du Nam-kỳ.
Mượn nhằm một xác nhu-mì,
Giảng dân sáu tháng vậy thì xem sao.
Rất buồn bá tánh biết bao,
Nạn nguy sắp đến mà ngao-du hoài!
Viết ra giảng kệ bốn bài,
Giã-từ trần-thế lui hài bôn-phi.
An-Nam phong-hóa lễ-nghi,
Đời nay văn-vật bỏ đi chẳng gìn.
Mảng lo chế nhạo chống kình,
Chẳng toan đạo-đức mà gìn thôn hương.
Ta đây dường thể như lươn,
Cứu dân chẳng nệ nắng sương lấm đầu.
Sáu trăng Thầy tớ dãi-đầu,
Quyết lòng truyền bá Đạo mầu mà thôi.
Bồng-Lai Điên dại có ngôi,
Tây-Phương Cực-Lạc Khùng ngồi tòa sen.
Từ-bi ngọn đuốc mới nhen,
Giả như mở cửa mà then còn cầm.
Dân tình xài-xể dập bầm,
Nào hay ta đã thương ngầm sanh linh.
Xác trần ta mở oai thinh,
Đạo mầu truyền pháp thình lình không hay.
Trớ-trêu con tạo thày-lay,
Lôi-âm sắc lịnh đòi rày hỏi han.
Cúi đầu tâu trước Phật đàng,
Lê dân ngoan-ngạnh xóm làng cừ-khôi.
Đầu đuôi tâu lại khúc nôi,
Một trăm mới đặng ối thôi mười người!
Mãng lo cao thấp ngạo cười,
Bởi chưng trần-hạ biếng lười không lo.
Di-Đà nghe tấu buồn xo,
Vạn dân bá tánh đắn-đo nhiều bề.
Làm sao cửa Phật dựa kề,
Hung sùng tàn ác khó bề dạy khuyên.
Thầy khùng trò lại hóa điên,
Khùng điên mấy tháng tình riêng ai ngờ!
Tượng xưa dấu cũ còn mờ,
Không lo tìm kiếm bến bờ mà nương.
Nói cho bổn-đạo đặng tường,
Dạy dân nào có gạt lường chi dân.
Chim ô đà dựa cầu Ngân,
Người xưa trở gót mấy lần ai hay.
Đời nầy chưa vẹn thảo ngay,
Thì là khó thấy mặt mày người xưa.
Dạy đời nào quản nắng mưa,
Ước mong bá tánh sớm ưa tu hành.
Đục trong bốn cuốn ngọn ngành,
Khuyên đời trau trỉa chữ lành cho xong.
Con người có Tổ có tông,
Học hay chữ nghĩa sao không phượng thờ?
Hiếu trung truyện tích sờ-sờ,
Người đời phải biết phượng thờ mẹ cha.
Từ đây ta mắc bôn-ba,
Dời chơn ra Bắc đặng mà dạy khuyên.
Vạn dân nên trọng Phật Tiên,
Dể ngươi lời dạy dọa riêng một mình.
Băc, Nam chờ đợi cuối Thìn,
Sẽ lo vận chuyển thân hình xác ta.
Viết thêm một khúc ngâm nga,
Dặn dò bổn đạo vậy mà mấy trương.
Ta dầu có cách thôn hương,
Vạn dân cứ chữ hiền lương mà làm.
Thích-Ca còn phế tước hàm,
Lầu cao cửa rộng mà ham tu hành.
Phật, tiên dụng kẻ lòng thành,
Đạo chơn thì ít ai hành thiệt tâm.
Trí phàm như chốn sơn lâm,
Dạy dân như phá rừng cầm cho dân.
Nào đâu dân có biết ân,
Mạnh rồi tưởng Phật vái Thần làm chi.
Đây nầy lời lẽ rán ghi,
Thương đời nên mới làm thi khuyên đời.
Ra đi dặn lại ít lời,
Dầu ai tài phép bày khoe,
Ham linh ham nghiệm sợ e mang nghèo.
Lựa cho phải cột phải kèo,
Phải vai phải vế mà theo kẻo lầm.
Ngọc kia ẩn dạng khó tầm,
Chọn nơi chơn chánh khỏi lâm khổ hình.
Ách trời nạn nước thình-lình,
Người hung cứ mãi chống kình với ta.
Theo tài học cũ nôm-na,
Hỡi ai trí-thức tầm mà cạn sâu.
Lúc rày chưa thể ngồi lâu,
Tách dời chốn khác ngõ hầu dạy răn.
Tín-đồ cùng các chư-tăng,
Từ rày sắp đến nói năng chọn lời.
Bớt phiền bớt não cuộc đời,
Rán nghe lời dạy vậy thời hành y.
Đạo mầu bát-chánh rán ghi,
Thứ nhứt chánh-kiến việc chi xem nhìn.
Luận bàn chơn-lý cho minh,
Chuyện chi xét đoán xảo tinh mới là.
Thứ nhì chánh-mạng vậy mà,
Việc làm do lịnh tâm hồn khiến sai.
Thứ ba tư-duy bằng nay,
Các điều tưởng nhớ thẳng ngay mới mầu.
Thứ tư chánh-nghiệp mặc dầu,
Nghề chi thì cũng ngõ hầu làm ngay.
Tà gian tánh ấy tù đày,
Của người tham nhũng nghề nầy chớ ham.
Thứ năm tinh-tấn hội đàm,
Sạch trong kỹ lưỡng mà làm mới ngoan.
Thứ sáu chánh-ngữ liệu toan,
Nói năng điều chánh thì an chớ gì!
Thứ bẩy chánh-niệm vậy thì,
Khi cầu khi nguyện chuyện gì thành tâm.
Thứ tám chánh-định chớ lầm,
Từ-bi hai chữ đứng nằm chớ quên.
Ngồi dâu cũng định mới nên,
Đừng cho công việc hớ-hênh với người.
Hành y thì đáng vàng mười,
Tùy lòng tùy sức của người đời nay.
Tu nhơn hiền hậu cũng hay,
Dạy đời phải viết ngày rày cho tinh.
Rút trong các luật các kinh,
Tùy lòng không ép làm in giảng nầy.
Thấp cao các bực chớ chầy,
Kẻ ngu người trí nghe Thầy dạy khuyên.
Sớm khuya bá tánh cần chuyên,
Nghe lời dạy bảo cảnh Tiên dựa kề.
Ít lâu ta cũng trở về,
Khuyên cùng bồn-đạo chớ hề lãng-xao.
Trì lòng chớ có núng-nao,
Từ đây nhơn-vật mòn hao lần-lần.
Mấy lời nhắn lại ân-cần,
Bổn-đạo xa gần nghĩ cạn mới hay.
Tu trì nguyện ước cầu may,
Thượng-Nguơn hồi phục là ngày an cư.
Học câu hỉ-xả đại từ,
Noi gương nghĩa-sĩ dạ tư chớ gần.
Bôn Nam tẩu Bắc tảo tần,
Chúng-sanh rán nhớ thì gần cùng ta.
Xác trần ta đã rời xa,
Bá-gia ở lại vậy mà bình-an.
Kia-kia anh hố hò khoan,
Tình lang về mất hổ-han mặt-mày.
Sớm lo sắp đặt luyện tài,
Phật Trời phân định mặt mày mới xinh.
Ơn trên lượng rộng thinh-thinh,
Từ-bi khuyến dạy mặc tình nghe không.
àng
Đồng Đạo Huỳnh Trúc Mai đang dự lễ (bìa hàng thứ 3)
Giống hiền như thể gieo bông.
Nhụy đơm thơm phứt màu hồng xuê-xang.
Dân ta dòng giống Tiên-bang,
Chớ đâu có giống ngỗ-ngang hung sùng.
Mặc tình bá tánh có dùng,
Ai muồn nghe Khùng chép lấy mà coi.
Lấy tâm lấy trí xét soi,
Thầy đi dạy Bắc thử coi lẽ nào?
Thôi thôi dân chớ hùng-hào,
Khùng từ bổn-đạo tẩu đào Bắc-đô.
Hòa-Hảo,
lối tháng 2 Canh-Thìn
(Chép theo bản chánh do ông Nguyễn-Chi-Diệp giư)