- Quyển I Khuyên Người Đời Tu-Niệm
- Quyển II Kệ Dân Của Người Khùng
- Quyển III Sám Giảng
- Quyển IV Giác Mê Tâm Kệ
- Quyển V Lời Khuyến Thiện Của Ông Vô Danh Cư Sĩ
- Quyển VI Cách Tu Hiền và Sự Ăn Ở của Một Người Bổn-Đạo
- DIỆU-PHÁP QUANG-MINH
- THIÊN LÝ CA
- ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC
- "TRONG VIỆC TU THÂN XỬ KỶ"
- PHẬT LÀ GÌ?
- CHƯ PHẬT CÓ BỐN ĐẠI-ĐỨC
- ĐỨC PHẬT ĐỐI VỚI CHÚNG-SANH
- THẬP NHỊ NHƠN-DUYÊN
- MÔN HOÀN DIỆT
ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC
(314 câu)
Để
chơn đất bắc Thầy
trò,
Dân còn quê kịch hát hò nghêu-ngao.
Xóm làng Đồng-Thạnh
xôn-xao,
Cùng nhau bàn-tán khác nào trong Nam.
Chúng
dân tựu ngũ tùng tam,
Kẻ ma người mị kẻ ham người cười.
Làng nầy đông-đúc nhiều người,
Dân tình cũng được đôi mươi tu hành.
Nhiều
người già cả lòng lành,
Có nhiều kỳ lão biết
rành tích xưa.
Tới đâu cũng ít người ưa,
Nằm lăn ca hát sớm trưa dỗ-dành.
Trưng bày tích cũ đành-rành,
Thiên-cơ
đạo-đức tu hành phận tôi.
Dân quê nghe nói hỡi ôi!
Hung-đồ cường nghịch một hồi cười reo.
Đâu
đây mà có hùm beo,
Khéo bày bá-láp nghe theo làm gì?
Thấy trong lê-thứ cũng kỳ,
Đi đâu cũng bị dân thì ghét vơ.
Ngày
đầu nhiều kẻ còn mơ,
Trị chơi ít bịnh ngẩn-ngơ xóm riềng.
Cũng không thèm trọng bạc tiền,
Quyết lòng tìm
kiếm người hiền mà thôi.
Bắc-kỳ
dân ít mép-môi,
Cũng còn cúng kiếng chè xôi ê-hề.
Thương dân nên chịu nặng-nề,
Lời ăn tiếng nói nhiều bề thấp cao.
Tớ thầy nào nệ cần-lao,
Thương dân dạy-dỗ xiết bao nhọc-nhằn.
Ngũ-luân
lễ nghĩa năm hằng,
Tam cang trung-trực
người rằng ngu-si.
Viết
ra mới bốn
bài thi,
Đặng cho trần thế biết thì Thần Tiên.
Cũng xưng rằng hiệu Khùng Điên,
Nhắc ra nhiều khúc Rồng-Tiên Hồng-Bàng.
THƠ rằng:
Nam-thiền vô ngại đại Hoành-Sơn,
Nhiên khước hành vi kỷ khách huờn.
Tân tạo huyền sanh hồi châu ngọc,
Hữu nhựt Tiên Thần hiệp luyện đơn.
Vân-vân bạch-bạch thức sinh thần,
Cổ quán thôn-hương nhứt dị nhân.
Tiên-sinh
hiện kiếp phò
Lê-chúa,
Hậu
truyền độ
chúng cảm hoài ân.
Liên hồng cảm-kích vĩ long tuyền,
Đồng-Thạnh
hàng kỳ tác thiện duyên.
Kiển-sám
truyền danh lưu hậu thế,
Nam-Việt trung-thần đệ nhứt Tiên.
Nhơn danh ly biệt ngạn Bắc-hà,
Cổ súy lương thần vị phong ca.
Thọ tử tâm trung trưng hùng khí,
Qui hồi quốc thủy tiện phương hoa.
Bốn
bài thơ đã làm xong,
Văn-nho bàn-bạc nhiều ông lắc đầu.
Nghĩ ra mới biết cơ cầu,
Người chi thi-phú công-hầu cổ nhơn.
Nghiệm
suy lời lẽ thiệt hơn,
Dặn-dò bá tánh thi ơn xóm làng.
Nào ta có nói bướng càn,
Về An-Giang
tỉnh rõ ràng ai hay.
Từ
đây Nam Bắc chuyển quay,
Khi đây khi đó ra tài khuyên dân.
Tuần-huờn tạo hóa cầm cân,
Ở đây cũng dạy hương-lân đủ đều.
Xác
nghèo nhà tợ cái lều,
Cơ-hàn rách-rưới nhiều đều nan nguy.
Tuy là gia-trạch hàn-vi,
Nhưng mà hiền-đức khác gì người xưa.
Nhiều
người lối xóm đẩy-đưa,
Tấm lòng không mến mà ưa bề ngoài.
Nước tràn ruộng lúa lạc loài,
Bắt
đầu lo chuyện miệt-mài bắp khoai.
Giáo-truyền lời lẽ thẳng ngay,
Hương-lân trùm-trưởng đắng cay nhiều bề.
Thầy trò
ra sức làm hề,
Ca tuồng ly-loạn dựa kề biên-cương.
Có
nhiều chệc khách Minh-hương,
Đau lòng nhiều khúc thê-lương bên Tàu.
Chú lùn Nhựt-Bổn
hùng-hào,
Chẳng thương sanh-mạng dân Tàu dại ngu.
Bởi
chưng hung-bạo chẳng tu,
Cho nên gây sự lu-bù chiến-tranh.
Bắc-Kỳ
Trung-Quốc giáp ranh,
Sao không xem đó tu hành hiền lương.
Cá
không ăn muối cá ươn,
Chẳng nghe lời dạy lâm đường chông gai.
Hát tuồng Trung-Quốc
quá dai,
Ta bèn bỏ bản hát bài tà-tinh.
Cả
kêu lớn nhỏ đệ-huynh,
Từ đây nhẫn nại chống
kình làm chi.
Bút nghiên lôi lại làm thi,
Đặng cho sanh-chúng bớt nghi tinh-tà.
Cổ qui tài tận hận do Tần,
Thiện chí tu
trì lập vĩ thân.
Tồn tại hư vô tầm
Bát-nhã,
Tiên kiếm thần thông chỉ huy cần.
Điền tan gia phế tế nhiên hàn,
Khổ đáo ly kỳ ảo viễn cang.
Nghị xuất Thần Tiên yên truyền đạo,
Bần phú cơ đồ bất tự sang.
Nôn nải kìa ai nhọc mưu cầu,
Thê thảm cho đời nẻo huyền sâu.
Kiên cố của tiền thiên đạo lý,
Cấp hồi ái truất trót canh thâu.
Thiên ý bất tư hoạnh trữ tài,
Biên hình liên huệ tất ư giai.
Kiệm kỷ tha lam mi hài-chí,
Long trì phi ẩn tạo kiền khai.
Ngạo cảnh du vân triện Bắc-hà,
Quá khứ trú đình vịnh ngân ca.
Thanh tích cổ nhân tân cừ khí,
Nghiên tòng bí khuyết bích-lư xa.
Thâm
canh bất mến công hầu,
Trông cho lê thứ gặp chầu vinh-huê.
Ở đâu dân cũng còn mê,
Tham câu danh lợi khó kề Thần-Tiên.
Tư
lương một mối sầu riêng,
Long thiền đãi ảnh vị thiên cô phần.
Ngảnh ngao tái chí thi ân,
Biện minh chí hứng đền lân dựa kề.
Huy hoàng hương nến tự thiên chi,
Hội kiến truyền linh thuyết vĩnh kỳ.
Lôi chất khai âm vô sắc thí,
Ngại hồi bi hiện án tiền phi.
Rừng
thông bên cạnh gần kề,
Bôn-phi lê-thứ nhiều bề gian-nan.
Bắc-kỳ còn hỡi hò khoan,
Chúng dân đi cấy reo vang ruộng đồng.
Thấy
đời cũng luống động lòng,
Xứ quê nghèo cực muỗi mòng thiếu chi.
Dạo miền thành-thị một khi,
Chán-chê thế sự sầu-bi trong lòng.
Ca
xang thảm cảnh não-nồng,
Cả kêu dân-chúng Lạc-Hồng hỡi ơi!
Giống xưa
Tiên cảnh tuyệt vời,
Ngày nay đã lạc đạo đời nhuốc-nhơ.
Người
hiền nghe thấu ngẩn-ngơ,
Đớn đau sắp đến bơ-vơ một mình.
Muốn xem được hội
Long-Đình,
Thì dân hãy rán sửa
mình cho trơn.
Ở
ăn cho vẹn mười
ơn,
Cảnh tình hiền-đức
gặp cơn khải hoàn.
Gắng công khỏi buổi nghèo nàn,
Sum vầy một cuộc Hớn đàng toại thay.
Người nào vẹn được thảo ngay,
Dựa
kề cửa Thánh
đài mây an nhàn.
Khuyên răn cuối xóm cùng làng,
Giàu sang nắm giữ của ngàn làm chi.
Việc
đời nhiều nỗi sầu-bi,
Hạ-nguơn
đã hết loạn-ly cơ đồ.
Bây giờ còn hỡi mờ-hồ,
Chẳng nghe dạy
chỉ cơ-đồ về sau.
Thử
xem cho biết vàng thau,
Tình yêu sanh chúng chẳng nao tấc lòng.
Tu hiền như thể phụng rồng,
Mắt nhìn Tiên cảnh mây hồng toại thay.
Bây
giờ rán chịu
đắng cay,
Ngày sau mới biết mặt mày Khùng Điên.
Đạo đời nào có tư riêng,
Minh-Vương
sửa trị mới yên ngôi Trời.
Xa-xăm
các chỗ các nơi,
Đâu đâu cũng rán nghe lời tiên tri.
Kẻ hung ngạo-nghễ khinh khi,
Nữa sau đến việc sầu-bi nhiều bề.
Tớ Thầy non núi dựa kề,
Cũng tìm am cốc liệu bề dạy khuyên.
Quyết lòng rửa sạch tiền khiên,
Ra oai ra lực hùng-yên mới là.
Bây
giờ còn liệu tây tà,
Cho nên đạo-đức khó mà cạn phân.
Nam-thiền
báu ngọc châu trân,
Phật Tiên phân
định tấm thân mới nhàn.
Duyên sự đê-mê cảnh Hớn-đàng,
Lần dò cho thấu
nẻo Tiên-bang.
Xuê-xang mấy kiểng nhìn sương gió,
Lòn cúi chờ trông lúc khải hoàn.
Mê-man danh-lợi cõi hồng trần,
Có một hội
nầy lập lấy thân.
Nếu để trễ chầy e chẳng kịp,
Khuyên ai khuya sớm gắng chuyên cần.
Huyền-vi cơ đạo kiến linh kỳ,
Tự thán dương-trần tốc kham bi.
Vô vị phi liên tâm phế kỷ,
Điểm hồng nê địa tự thiên chi.
Chừng
nào thấy được phụng
hoàng,
Rồng
chầu chớp-nháng Hớn-đàng hiển-vinh.
Sớm chiều rèn đúc kỉnh-tinh,
Ngày sau mới thấy phép linh của Trời.
Ai
ai cũng ở trong đời,
Chốn nào
không đạo là đời vô liêm.
Xét suy cho cạn cổ kim,
Hết tâm bền chí rạch tim xem nhìn.
Ta
đây ưa ghét mặc tình,
Dương-gian cứ mãi chống-kình làm chi.
Chừng nào thượng-cổ hồi qui,
Thế-trần mới hết khinh-khi Phật Trời.
Tu
hành đạo-đức rao mời,
Như người ngu dại với đời loạn-ly.
Ở sao cho biết tôn-ti,
Dể-ngươi Phật Thánh sầu-bi mãn đời.
Khùng-Điên ẩn-nhẫn tùy thời,
Có-cơn giả dạng dắt
đời hạ-nguơn.
Mặc tình ai nói thiệt hơn,
Thấp cao tai tiếng làm ơn cho đời.
Luân
phiên Thầy
Tớ tách vời,
Chẳng nài lao-lý miễn đời bình an.
Tiếng đờn hò liếu cống xang,
Đêm khuya khuyên nhủ khắp tràng chúng-sanh.
Buổi
nay nhằm lúc vắng thanh,
Lời ta khuyên đó như cành ghẹo chim.
Trau dồi đúng bực thanh liêm,
Nữa sau mới biết thành kim đền đài.
Việc
đời nhiều lúc khôi-hài,
Quyết lòng
cho thế một bài học hay.
Chuyển miền Nam
địa lung-lay,
Nam Trung cùng Bắc một tay giáo đời.
Thiếu
ai mà bị réo mời,
Đầu trên xóm dưới thỉnh mời liên thinh.
Trớ-trêu phải mượn
kệ kinh,
Mặc tình dân-sự biện minh lẽ nào.
THI
Thâm-trầm
đạo-đức quá thanh-thao,
Rừng-rú
kệ-kinh cắt khoen rào.
Rước đưa sanh-chúng rời bể ái,
Thử-thét cho cùng cạn thấp cao.
Liên
lụy trần mê bể ái hà,
Bỗng xuất thoàn tình mượn thi ca.
Thể-thống Thần Tiên kiên bế chí,
Tương đồng sanh-chúng gội ma-ha.
Si
lung á giá tọa phú hào,
Tiên kiến hậu hiền quí kỷ cao.
Thố tử hồ bi ghi chí hứng,
Đại đồng
đạo cả khắp trùm bao.
Toan
ly bể khổ, khổ tới à!
Dân-sự an-nhàn sướng dữ a!
Ta mảng lòng lo gìn sanh-chúng,
Gội nhuần ân-đức vịnh phong ca.
Ma-ha thoàn nhỏ đã dọn rồi,
Chèo lái trương bườm chớ thả trôi.
Bến giác bờ mê, mê
phải tránh,
Ly-biệt hồng
trần hỡi ai ôi!
Liên-hoa chín phẩm ở ngọc tòa,
Được lịnh
Thiên-Hoàng nấy sai ta.
Hạ-giái dạy khuyên truyền đạo-lý,
Giả dạng
Điên-Khùng mượn thi ca.
Ham
vui đào mận chẳng xong rồi,
Trung hiếu
giữ-gìn phận con
tôi.
Thế-sự bao la ta chẳng quản,
Tiên-cảnh non Bồng sẵn vị-ngôi.
Nước
non náo-nức giống
nòi Hồng,
Gắng chí
kiếm tìm chủ-nhơn ông.
Tuổi trẻ đầu xanh khoanh tay rế,
Liệu-lượng thâm
tình tợ biển sông.
Thay
cảnh đổi lòng nỗi biệt-ly,
Muốn gặp bảng son với linh-kỳ.
Noi sức
bình-sanh quanh nước lửa,
Có một ngày chờ hội
ứng thi.
Hồn
thơ Tiên
Thánh sánh đạo mầu,
Chẳng thấy việc đời mảng góp thâu.
Tóm tắt ít
lời âu diệt chủng,
Thế-sự mê hồn lụy song mâu.
Cha
nọ bồng con vợ khóc òa,
Tan nát xóm diềng khổ dữ a!
Nhà không kẻ ở, ôi! nói trước,
Nếu chẳng tin lời gặp thiết-tha.
Lời xưa di tích rõ việc nầy,
Ai muốn mắt phàm gặp Rồng Mây.
Hãy rán nghe
lời ta mách trước,
Không gìn
đạo-đức phải phơi thây.
Thương
dân xuống
bút tay đề,
Dặn-dò
bá-tánh chớ hề lợt-phai.
Cuộc thế-giới chuyển lay như chóng,
Khuyên dân tình hãy lóng mà nghe.
Lam-kiều hữu lộ vắng hoe,
Ngục môn
không cửa mà hè nhau đi.
Thảm cho trẻ hài-nhi liệu-điệu,
Vợ xa chồng bận-biệu thê lương.
Phong
trần dày-dạn gió sương,
Chư bang ham
báu hùng-cường đua tranh.
Còn một cuộc chiếu
manh giành xé,
Khắp hoàn-cầu ó-ré
một nơi.
Dòm
xem châu ngọc chiều mơi,
Sao đời không sớm tách dời cõi mê.
Để đến việc thảm-thê thê-thảm,
Mắt phàm-trần tường lãm bi-ai.
Cũng
đồng cốt-nhục hoài thai,
Nên ta rán sức miệt-mài dạy khuyên.
Thơ với phú Thần
Tiên giáng bút,
Bởi cơ trời
đà thúc bên lưng.
Không
tu chừng khổ cũng ưng,
Tu hành gặp cảnh vui mừng toại thay!
Hoàng
hôn tái sắc
chuyển luân tài,
Nhựt dạ yêu đời chỉ quá dai.
Tỏ thuyết
huyền-vi sanh-chúng rõ,
Năng kỳ liên huệ tất biền lai.
Tư
lương đeo đuổi giấc mộng sầu,
Bớ hỡi dương trần khá liệu âu.
Nước lửa đến chưn, ôi! khó nhảy,
Co giò phóng riết lọt ngoài sâu.
Huyền cơ đạo-hạnh hãy rán tầm,
Đời cùng Tiên Phật dụng nhơn tâm.
Ngàn năm Thích
đạo đành chôn lấp,
Thương tưởng bá-gia nỗi lạc lầm.
Cảnh
thảm khổ chiều mai sẽ đến,
Sao dân còn triếu-mến trần-mê?
Mắt nhìn ngoại quốc thảm-thê,
Nam-bang cảnh khổ cũng kề bên tai.
Cuộc biến động nay mai nguy ngập,
Một hội nầy rán
lập thân danh.
Kìa kìa các bực công khanh,
Miễu son tạc để đành rành chẳng sai.
Đất
với nước
hậu lai vinh-diệu,
Đạo
lo tròn yểu-điệu tấm thân.
Một câu quân lý tứ
ân,
Ta đừng phai-lợt phong-thần bảng ghi.
Hòa-Hảo,
tháng giêng năm Canh-Thìn
(Chép theo bổn chánh của Đức Thầy do Đức Ông giữ)