- Quyển I Khuyên Người Đời Tu-Niệm
- Quyển II Kệ Dân Của Người Khùng
- Quyển III Sám Giảng
- Quyển IV Giác Mê Tâm Kệ
- Quyển V Lời Khuyến Thiện Của Ông Vô Danh Cư Sĩ
- Quyển VI Cách Tu Hiền và Sự Ăn Ở của Một Người Bổn-Đạo
- DIỆU-PHÁP QUANG-MINH
- THIÊN LÝ CA
- ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC
- "TRONG VIỆC TU THÂN XỬ KỶ"
- PHẬT LÀ GÌ?
- CHƯ PHẬT CÓ BỐN ĐẠI-ĐỨC
- ĐỨC PHẬT ĐỐI VỚI CHÚNG-SANH
- THẬP NHỊ NHƠN-DUYÊN
- MÔN HOÀN DIỆT
THIÊN LÝ CA
(310 câu)
PHAN
lòng chữ dạ chớ hoài lo,
NGỌC ẩn non Côn tợ lửa lò.
CHÂU lạc đường dê
nương bước ngựa,
Núi truông qua đặng rán lần dò.
Vườn
hoa ngó khỉ
giọng chiu-chít,
Cảnh nguyệt coi gà
tiếng ó-o.
Tường-tận đã nghe xê cống liếu,
Hương thôn bỏ xế xự xang hò.
Đoc ngược lại bốn câu trên (tứ nguyệt
nghịch độc)
Hò
xang xự xế bỏ thôn hương,
Liếu cống xê nghe đã tận tường.
O-o tiếng gà coi nguyệt cảnh,
Chít-chiu giọng khỉ ngó hoa vườn.
Quỉ
ma hay phá
rối người tu,
Đạo-đức chư nhu rán
chí hành.
Chớ bỏ lời thề nơi Phật cảnh,
Chớ quên tiếng nguyện chốn non xanh.
Đêm
thanh vắng tiếng đờn khoan-nhặt,
Nghe cho tường giọng bắc hòa nam.
Thích-Ca
còn phế tước-hàm,
Đài cao cửa rộng mà ham tu hành.
Hiền
đệ Châu muốn nghe lời ngọc,
Lão tỏ bày hình vóc nhiệm-sâu.
(Câu nầy của Đức Thầy thêm. Đoạn sau đây có khúc của ông đò, có khúc của Đức Thầy viết xen kẽ).
Thiên ý không riêng mối đạo mầu,
Rằng truyền
yếu-lý nhiệm cao sâu.
Chuyển miền Nam-Địa càng thâm-diệu,
Lọc lẽ tà tâm sự đứng đầu.
Nguồn
bạch thủy trong veo thấy dạng,
Lẽ nhiệm mầu chưa hản trò ôi!
Đêm ngày buồn-bã vô hồi,
Kìa trên Tiên-cảnh
vị-ngôi sẵn dành.
Đạo
rải khắp năm canh tỏa bút,
Dạy
tận-tường chẳng chút nào sai.
Cổ nhơn tích để phân bày,
Đường chơn
nẻo chánh âu ai rán tầm.
Thuyền bát-nhã chí tâm trực thẳng,
Thả ra khơi cứu
dẫn khách trần.
Phù-sanh lắm cuộc lao thân,
Ngày đêm ta-thán muôn phần đớn-đau.
Trông
đợi người tài cao đức trọng,
Hầu rõ thông thiên-võng lẽ nao.
Chí tâm tường lãm thấp cao,
Dạy cho rõ biết Thiên-Tào nơi đâu.
Ngồi
nghĩ cạn thêm sầu cho thế,
Bởi ít ai cải chế đường tà.
Sợ e nhiễm trược đọa sa,
Sợ cho lắm kẻ chan hòa lụy tuôn.
Sợ
nhiều kẻ dạ buồn đổi chí,
Quên những câu chánh kỷ hóa nhơn.
Mảng lo tìm kiếm tước quờn,
Thất kỳ vọng tưởng lánh chơn đường lành.
Trong
buổi khổ mau mau tránh khổ,
Rán tầm vào đến chổ an cư.
Học câu hỉ-xả
đại từ,
Nêu gương nghĩa sĩ dạ tư chớ gần.
Câu
bát-chánh
rán mài chạm dạ,
Tứ mục-điều
người khá hành y.
Muôn thu thiên định nhứt kỳ,
Hạ-nguơn sắc-lịnh khai kỳ Long-hoa.
Rán
vẹt phá sương mù trước mắt,
Chớ để cho quỉ dắt linh hồn.
Lão
đây vưng lịnh Phật-tôn,
Lãnh cân thưởng
phạt chư môn dữ lành.
Khá
chí tâm học hành kinh sám,
Thoát nơi miền hắc-ám phong-ba.
Trở chơn cho kịp Long-Hoa,
Long-Hoa
có mặt ấy là hiền nhơn.
Đền nợ thế nghĩa-ơn trọn vẹn,
Lấy tinh-thần hiệp vén ngút-mây.
Chớ nên bắt-bẻ Phật-Thầy,
Ngày sau phải chịu đọa đày chớ than.
Cuối
năm Thìn
sẽ lo vẫn chuyển,
Xứ "Hà
tiên" linh hiển cơ-quan.
Nhơn sanh sẽ hiệp
một đàng.
Hết Thìn rồi lập
Nhơn-Hoàng hội ra.
Khuyên
sanh-chúng gần xa phân cạn,
Dựng
Nhơn-Hoàng cho rạng Á-Đông.
Chúng-sanh phải tưởng giống-dòng,
Hiệp tâm hiệp trí cột đồng nhà Nam.
Phật
chỉ dạy qui
tam lập hội,
Dựng cho rồi một
cội thành ba.
Chớ mong yến thử ẩm hà,
Mười ngàn năm lẻ cửa nhà đâu con.
Ta
nhắc lại héo von cho trẻ,
Cứ đâu lưng đừng
rẽ đừng chia.
Cả kêu lớn
nhỏ quày vìa,
Trên hòa
dưới thuận
chớ lìa chớ phân.
Long-Hoa hội ân-cần lo lập,
Lập cho rồi tam-thập-lục
nhơn.
Lôi-Âm giục khởi tiếng đờn,
Thất-Sơn dấy
loạn là cơn hiểm-nghèo.
Nơi
phía trước
cheo leo tiếng khóc,
Đứng sau
lưng hình-vóc dảy chưn.
Nước kia lửa nọ tưng bừng,
Thảm cho thế sự lẫy-lừng nạn tai.
Thời
cũng tại không ai tu niệm,
Cứ lẳng-lơ ngạo biếm khoe-khoang.
Đến nay là buổi tai nàn,
Tam thiên
lục bá khắp tràng hại dân.
Đến
Thân-Dậu
Thánh-Thần náo động,
Thảm cho trần nhà trống ruộng hoang.
Tiếng than lụy ngọc nhỏ tràn,
Nạn tai
dồn-dập xóm làng còn chi.
Khuyên
sanh-chúng rán ghi mối Đạo,
Lòng hằng lo ngay thảo nghe con.
Tương dưa giữ phận cho tròn,
Cuối niên Thân-Dậu
mất còn sẽ phân.
Trong
một giáp
ân-cần suy tính,
Muốn làm hiền rán
nhịn đừng than.
Đến nay gần buổi khoa tràng,
Minh-quân
xuất thế khắp tràng thảnh-thơi.
Đến
Thân-Dậu
cơ trời thấy lộ,
Hết đao binh qui
cổ diệt kim.
Gia vô bế hộ im-lìm,
Lập thành mối
Đạo rõ điềm xưa kia.
Thì
dân-chúng danh bia hậu thế,
Phật, Thánh,
Tiên kềm chế lập thành.
Diệt tà lập
chánh đành-rành,
Ba mầu nắm chặt Nam-thành xử phân.
Trong
tam giáo
ân-cần mở Đạo,
Trường ngoại bang phục đáo như xưa.
Phật Tiên
vận chuyển lọc-lừa,
Chúng-sanh rán nhớ muối dưa hội nầy.
Trên
cùng dưới sum vầy một buổi,
Dựng mười
hai may rủi mới hay.
Làm cho rõ mặt râu mày,
Thương-nguơn
hồi phục là ngày an cư.
Cuối Thân-Dậu
y như Thượng-cổ,
Thời nhơn sanh hết khổ đến may.
Đế-Vương
xuất thế là ngày,
Dậu, Thân bình-trị
trong ngoài âu ca.
Phân
chỉ rành gần xa để
dạ,
Chớ đảo-điên
phải đọa phải sa.
Nghĩ suy cho thấu mới là,
Một bầy Hồng-Lạc nay đà thảnh-thơi.
Khuyên
sanh-chúng nhớ lời ta tỏ,
Trước cùng sau chỉ
rõ mối đàng.
Nhơn-sanh giữ phận chớ than,
Minh-Vương
xuất thế mới an dân lành.
*****
Gội ơn Trời độ khỏi sai lầm,
Xin giúp chí bền, chí dục tâm.
Hộ mạng thần Quan-Âm trợ lực,
Nguyện thân ý nhiệm xứng công thần.
Từ-bi Trời Phật độ quần sanh,
Cứu khỏi tai ương vạn sự lành.
Đệ-tử gội nhuần ân đức cả,
Chung thân quyết chí dốc làm lành.
*****
Đoạn dưới đây là hoàn toàn của Đức Thầy (chép theo bổn chánh).
Buồn vơi mượn bút tay đề,
Đã rời trần-thế
dựa kề Tiên-bang.
Tay chèo miệng nói lang-mang,
Chúng-sanh cách trở nghèo nàn hỡi ai.
Lục châu ta dạo bằng nay,
Thấy trong lê-thứ quá dài gian-nan.
Động tình tá
quốc an bang,
Nước nhà vững đặt Nam-đàng hiển-vinh.
Bây giờ ta mượn kệ kinh,
Khuyên ai mau
kíp sửa mình cho an.
Bữa xưa
giảng-kệ một nang,
Bởi vì ta mắc dời thoàn cảnh xa.
Ngày nay ta cũng nôm-na,
Gẫm trong lê-thứ hằng-hà lụy rơi.
Chừng nào
mới đặng thảnh-thơi,
Qua năm Tuất-Hợi
Phật Trời định phân.
Chim Ô đà dựa cầu Ngân,
Người xưa trở
gót cho gần người nay.
Người nay rồi vẹn thảo ngay,
Thì là thấy tạn mặt mày người xưa.
Nguyện cầu gắng chí sớm trưa,
Cầu cho
bá-tánh sớm ưa tu hành.
Đầu đuôi ta tỏ
ngọn ngành,
Mau mau trau-trỉa
chữ lành cho xong.
Đến chừng lập hội mới mong,
Trở vể chúa cũ mới hòng xuê-xang.
Người hiền
như thể cỏ lan,
Người hung
chết rất chật đàng thảm thay.
Cả kêu kìa hỡi là ai,
Quan trường rời
dứt mặt mày chùi lau.
Lui chơn
ra khỏi cho mau,
Tìm trong
lánh đục tẩu đào mới ngoan.
Theo ta đến chốn Tiên-bang,
Đặng coi các nước hội hàng Năm-Non.
Đạo Phật vốn ngàn xưa rạng tỏ,
Nay lu-lờ bị mõ cùng chuông,
Thấy chúng-sanh đắp Phật bán buôn,
Mà tội lỗi ngàn muôn lao-lý.
Cho đó hiểu nhiều câu huyền-bí,
Rán nghĩ suy bền
chí mới mầu.
Dẹp
lợi-danh dẹp
hết mộng sầu,
Đặng trở lợi với cha cùng chúa.
Nếu chẳng lo cũng như lá úa,
Lá úa vàng nó rụng người ôi!
Ngàn năm mới
có một đời,
Tới chừng lập
hội Phật-Trời xử phân.
Ai muốn gần bệ ngọc các lân,
Thì phải rán lập
thân nuôi chí.
Ta cho đó ít câu hữu lý,
Diệt tâm trần
lập chí hiền-nhơn.
Đục trong đà tỏ nguồn cơn,
Lời ta khuyên đó như đờn Bá-Nha.
Mặc ai biếm nhẻ gần xa,
Lòng ta ta biết ai mà mặc ai.
Đây khuyên đó đắng cay rán chịu,
Mặc người trên bận-bịu chẳng phê.
Muốn cho thân vượt khỏi lề,
Cắm sào trì
chí một bề lo tu.
Kim ngọc nan tri tường đông hải,
Phật tà phàm tục tất nan tri.
Ẩn xác
phàm phu gìn Thích-đạo,
Mặc tình thế sự chúng khinh-khi.
Mấy kẻ tu mi tròn nhơn đạo,
Hiền nhơn thức
tỉnh kiến huyền-vi.
Ngay thẳng hiếu
trung trang hiền thảo,
Kim thời bá-tánh gọi ngu-si.
Nợ thế đền xong mong giai lão,
Hiền
thần hiếu
nghĩa đáng nên ghi.
Lâm sầu mộng ở trong trần thế,
Việc tu hành như ế chợ đông.
Mãng lo danh lợi não-nồng,
Chữ tu để dạ
chớ hòng lợt phai.
Mặc tình ai gièm-pha tai tiếng,
Sửa tâm lành
như miếng hoa thơm.
Đến chừng hoa nở nhụy đơm,
Thì là trần-thế mới hờm bẻ hoa.
Câu đạo-lý thiệt
tường
thiệt tận,
Khuyên dương-trần bớt giận đừng gây.
Kia kia súng nổ trời Tây,
Đến năm Thân-Dậu
tai đầy sấm vang.
Hung-đồ với lũ dọc ngang,
Đến sau rơi máu khắp tràng mới tu.
Thấy đạo-lý còn lu chưa tỏ,
Dân ganh hiền ghét ngõ làm chi?
Buồn đời
xuống bút làm thi,
Thương dân
chịu chữ cố lỳ dạy dân.
Nào nào dân có biết ân,
Mạnh rồi tưởng Phật vái Thần làm chi.
Lời châu ngọc khuyên ai để dạ,
Nay gặp người quái lạ tỏ phân.
Hãy mau khuya sớm chuyên cần,
Đặng xem chư-quốc non Tần giành chia.
Nay nhằm lúc đêm khuya lặng-lẽ,
Nhắn ít lời cho kẻ đàng xa.
Phật-nhi tâm tánh thật-thà,
Ông còn phân biệt chánh tà nữa thôi?
Dương-trần thường bạc như vôi,
Gặp cơn bát loạn mới hồi tâm hung.
Lúc áo-não cội thung lo-liệu,
Gắng bền lòng bận-bịu vì ai.
Thất-sơn lộ vẽ đài lầu,
Chừng ni mới thấy nhiệm mầu của ta.
Khuyên bổn-đạo gần xa nuôi chí,
Lẽ nhiệm-mầu
huyền-bí nơi đây.
Bây giờ nương
bóng cờ tây,
Mượn phần
xác thịt tỏ bày thiệt hơn.
Thương
sanh-chúng đòi cơn dạ ngọc,
Ta quyết gìn
chủng-tộc giang-sơn.
Ta khùng mà chẳng có cơn,
Cũng không có tánh giận hờn bá gia.
Cười
rồi khóc thiết-tha liệu-điệu,
Vợ xa chồng bận-bịu thê lương.
Chẳng cần trà,
quả, nồng hương,
Miễn cho bá-tánh biết đường chơn tu.
Nghe
kệ sám như ru giấc mộng,
Lo chê cười hầu họng reo vang.
Ỷ mình nhiều của giàu sang,
Phụ khinh tông-tổ chẳng màng người xưa.
Mặc
ý ai ghét ưa ưa ghét,
Lấy tâm thần
xem xét thể nao?
Sấm vang thì lộ bảng vàng,
Chư nhu
thế-giới khắp tràng tới thi.
Chữ
thi gần chữ sầu-bi,
Bị ham của
báu ly-kỳ máu rơi.
Chừng đó mới trời ơi đất hỡi,
Mang khổ hình vì bởi chẳng tu.
Ham
vui quyền quí dại ngu,
Chữ sang danh vọng như mù đi đêm.
Ta nào có nói thêm cho chúng,
Quá yêu đời viết túng ít câu.
Ít
câu mà ý
nhiệm sâu,
Nghĩ suy cho
cạn mới hầu khôn-ngoan.
Đây sắp đến lầm than khắp chốn,
Việc tu hành đâu tốn tiền chi.
Nầy
nầy lời lẽ rán ghi,
Sau đây sẽ thấy việc gì trên mây.
Ta mắc lánh tà-tây đa sự,
Làm Điên-Khùng cũng tự lẽ ni.
Ai
là đáng bực tu-mi,
Thương đời ta mới làm thi khuyên đời.
Còn ẩn-nhẫn
đợi thời đưa đến,
Nên phải làm kẻ mến người khinh.
Người
hiền tâm trí thông-minh,
Người hung
cứ mãi chống
kình với ta.
Theo học cổ nôm-na ít tiếng,
Làm nhiều điều xao-xuyến nhơn tâm.
Chữ nhu ta học âm-thầm,
Ai là người trí rán
tầm cho ra.
Để đến lúc phong-ba biến-chuyển,
Cảnh hồng-trần tợ biển mênh-mông.
Mới
là sợ chết ước-mong,
Mà không ai cứu bởi lòng ác-gian.
Tiếng đờn hò liếu cống-xang,
Đêm khuya khuyên-nhủ khắp tràng chúng-sanh.
Chốn Phật-cảnh vắng tanh kẻ tới,
Ta ra đời nên
mới đổi thay.
Bởi vì lời
lẽ thẳng ngay,
Cho nên chúng nó ghét bài phú thi.
Thấy
tăng-chúng sầu bi dạ mỗ,
Kệ khuyên trần nước đổ lá môn.
Khắp cùng làng xóm hương thôn,
Vì khôn quá
thế nên tồn lại ngu.
Dạy đạo-đức người tu rạng lý,
Mong cho người
hữu chí làm theo.
Không làm thì ắt mang eo,
Làm xong vượt
khổ qua đèo chông-gai.
H.H. tháng 7 năm Kỷ-Mão