THIÊN LÝ CA

25 Tháng Ba 201412:00 SA(Xem: 29703)
THIÊN LÝ CA

THIÊN LÝ CA

(310 câu)

 

PHAN lòng chữ dạ chớ hoài lo,
NGỌC ẩn non Côn tợ lửa lò.
CHÂU lạc đường nương bước ngựa,
Núi truông qua đặng rán lần dò.

Vườn hoa ngó khỉ giọng chiu-chít,
Cảnh nguyệt coi tiếng ó-o.
Tường-tận đã nghe xê cống liếu,
Hương thôn bỏ xế xự xang hò.

Đoc ngược lại bốn câu trên (tứ nguyệt nghịch độc)

Hò xang xự xế bỏ thôn hương,
Liếu cống xê nghe đã tận tường.
O-o tiếng gà coi nguyệt cảnh,
Chít-chiu giọng khỉ ngó hoa vườn.

 

Quỉ ma hay phá rối người tu,
Đạo-đức chư nhu rán chí hành.
Chớ bỏ lời thề nơi Phật cảnh,
Chớ quên tiếng nguyện chốn non xanh.

 

Đêm thanh vắng tiếng đờn khoan-nhặt,
Nghe cho tường giọng bắc hòa nam.
Thích-Ca còn phế tước-hàm,
Đài cao cửa rộng mà ham tu hành.

Hiền đệ Châu muốn nghe lời ngọc,
Lão tỏ bày hình vóc nhiệm-sâu.

 

(Câu nầy của Đức Thầy thêm. Đoạn sau đây có khúc của ông đò, có khúc của Đức Thầy viết xen kẽ).

 

Thiên ý không riêng mối đạo mầu,
Rằng truyền yếu-lý nhiệm cao sâu.
Chuyển miền Nam-Địa càng thâm-diệu,
Lọc lẽ tà tâm sự đứng đầu.

 

Nguồn bạch thủy trong veo thấy dạng,
Lẽ nhiệm mầu chưa hản trò ôi!
Đêm ngày buồn-bã vô hồi,
Kìa trên Tiên-cảnh vị-ngôi sẵn dành.

Đạo rải khắp năm canh tỏa bút,
Dạy tận-tường chẳng chút nào sai.
Cổ nhơn tích để phân bày,
Đường chơn nẻo chánh âu ai rán tầm.

Thuyền bát-nhã chí tâm trực thẳng,
Thả ra khơi cứu dẫn khách trần.
Phù-sanh lắm cuộc lao thân,
Ngày đêm ta-thán muôn phần đớn-đau.

Trông đợi người tài cao đức trọng,
Hầu rõ thông thiên-võng lẽ nao.
Chí tâm tường lãm thấp cao,
Dạy cho rõ biết Thiên-Tào nơi đâu.

Ngồi nghĩ cạn thêm sầu cho thế,
Bởi ít ai cải chế đường tà.
Sợ e nhiễm trược đọa sa,
Sợ cho lắm kẻ chan hòa lụy tuôn.

Sợ nhiều kẻ dạ buồn đổi chí,
Quên những câu chánh kỷ hóa nhơn.
Mảng lo tìm kiếm tước quờn,
Thất kỳ vọng tưởng lánh chơn đường lành.

Trong buổi khổ mau mau tránh khổ,
Rán tầm vào đến chổ an cư.
Học câu hỉ-xả đại từ,
Nêu gương nghĩa sĩ dạ tư chớ gần.

Câu bát-chánh rán mài chạm dạ,
Tứ mục-điều người khá hành y.
Muôn thu thiên định nhứt kỳ,
Hạ-nguơn sắc-lịnh khai kỳ Long-hoa.

Rán vẹt phá sương mù trước mắt,
Chớ để cho quỉ dắt linh hồn.
Lão đây vưng lịnh Phật-tôn,
Lãnh cân thưởng phạt chư môn dữ lành.

Khá chí tâm học hành kinh sám,
Thoát nơi miền hắc-ám phong-ba.
Trở chơn cho kịp Long-Hoa,
Long-Hoa có mặt ấy là hiền nhơn.

Đền nợ thế nghĩa-ơn trọn vẹn,
Lấy tinh-thần hiệp vén ngút-mây.
Chớ nên bắt-bẻ Phật-Thầy,
Ngày sau phải chịu đọa đày chớ than.

 

Cuối năm Thìn sẽ lo vẫn chuyển,
Xứ "Hà tiên" linh hiển cơ-quan.
Nhơn sanh sẽ hiệp một đàng.
Hết Thìn rồi lập Nhơn-Hoàng hội ra.

Khuyên sanh-chúng gần xa phân cạn,
Dựng Nhơn-Hoàng cho rạng Á-Đông.
Chúng-sanh phải tưởng giống-dòng,
Hiệp tâm hiệp trí cột đồng nhà Nam.

Phật chỉ dạy qui tam lập hội,
Dựng cho rồi một cội thành ba.
Chớ mong yến thử ẩm hà,
Mười ngàn năm lẻ cửa nhà đâu con.

Ta nhắc lại héo von cho trẻ,
Cứ đâu lưng đừng rẽ đừng chia.
Cả kêu lớn nhỏ quày vìa,
Trên hòa dưới thuận chớ lìa chớ phân.

Long-Hoa hội ân-cần lo lập,
Lập cho rồi tam-thập-lục nhơn.
Lôi-Âm giục khởi tiếng đờn,
Thất-Sơn dấy loạn là cơn hiểm-nghèo.

Nơi phía trước cheo leo tiếng khóc,
Đứng sau lưng hình-vóc dảy chưn.
Nước kia lửa nọ tưng bừng,
Thảm cho thế sự lẫy-lừng nạn tai.

Thời cũng tại không ai tu niệm,
Cứ lẳng-lơ ngạo biếm khoe-khoang.
Đến nay là buổi tai nàn,
Tam thiên lục bá khắp tràng hại dân.

Đến Thân-Dậu Thánh-Thần náo động,
Thảm cho trần nhà trống ruộng hoang.
Tiếng than lụy ngọc nhỏ tràn,
Nạn tai dồn-dập xóm làng còn chi.

Khuyên sanh-chúng rán ghi mối Đạo,
Lòng hằng lo ngay thảo nghe con.
Tương dưa giữ phận cho tròn,
Cuối niên Thân-Dậu mất còn sẽ phân.

Trong một giáp ân-cần suy tính,
Muốn làm hiền rán nhịn đừng than.
Đến nay gần buổi khoa tràng,
Minh-quân xuất thế khắp tràng thảnh-thơi.

Đến Thân-Dậu cơ trời thấy lộ,
Hết đao binh qui cổ diệt kim.
Gia vô bế hộ im-lìm,
Lập thành mối Đạo rõ điềm xưa kia.

Thì dân-chúng danh bia hậu thế,
Phật, Thánh, Tiên kềm chế lập thành.
Diệt tà lập chánh đành-rành,
Ba mầu nắm chặt Nam-thành xử phân.

Trong tam giáo ân-cần mở Đạo,
Trường ngoại bang phục đáo như xưa.
Phật Tiên vận chuyển lọc-lừa,
Chúng-sanh rán nhớ muối dưa hội nầy.

Trên cùng dưới sum vầy một buổi,
Dựng mười hai may rủi mới hay.
Làm cho rõ mặt râu mày,
Thương-nguơn hồi phục là ngày an cư.

 
Cuối Thân-Dậu y như Thượng-cổ,
Thời nhơn sanh hết khổ đến may.
Đế-Vương xuất thế là ngày,
Dậu, Thân bình-trị trong ngoài âu ca.

Phân chỉ rành gần xa để dạ,
Chớ đảo-điên phải đọa phải sa.
Nghĩ suy cho thấu mới là,
Một bầy Hồng-Lạc nay đà thảnh-thơi.

Khuyên sanh-chúng nhớ lời ta tỏ,
Trước cùng sau chỉ rõ mối đàng.
Nhơn-sanh giữ phận chớ than,
Minh-Vương xuất thế mới an dân lành.

 

 *****

Gội ơn Trời độ khỏi sai lầm,
Xin giúp chí bền, chí dục tâm.
Hộ mạng thần Quan-Âm trợ lực,
Nguyện thân ý nhiệm xứng công thần.

 

Từ-bi Trời Phật độ quần sanh,
Cứu khỏi tai ương vạn sự lành.
Đệ-tử gội nhuần ân đức cả,
Chung thân quyết chí dốc làm lành.

 

*****

Đoạn dưới đây là hoàn toàn của Đức Thầy (chép theo bổn chánh).

 

Buồn vơi mượn bút tay đề,
Đã rời trần-thế dựa kề Tiên-bang.
Tay chèo miệng nói lang-mang,
Chúng-sanh cách trở nghèo nàn hỡi ai.

Lục châu ta dạo bằng nay,
Thấy trong lê-thứ quá dài gian-nan.
Động tình tá quốc an bang,
Nước nhà vững đặt Nam-đàng hiển-vinh.

Bây giờ ta mượn kệ kinh,
Khuyên ai mau kíp sửa mình cho an.
Bữa xưa giảng-kệ một nang,
Bởi vì ta mắc dời thoàn cảnh xa.

Ngày nay ta cũng nôm-na,
Gẫm trong lê-thứ hằng-hà lụy rơi.
Chừng nào mới đặng thảnh-thơi,
Qua năm Tuất-Hợi Phật Trời định phân.

Chim Ô đà dựa cầu Ngân,
Người xưa trở gót cho gần người nay.
Người nay rồi vẹn thảo ngay,
Thì là thấy tạn mặt mày người xưa.

Nguyện cầu gắng chí sớm trưa,
Cầu cho bá-tánh sớm ưa tu hành.
Đầu đuôi ta tỏ ngọn ngành,
Mau mau trau-trỉa chữ lành cho xong.

Đến chừng lập hội mới mong,
Trở vể chúa cũ mới hòng xuê-xang.
Người hiền như thể cỏ lan,
Người hung chết rất chật đàng thảm thay.

Cả kêu kìa hỡi là ai,
Quan trường rời dứt mặt mày chùi lau.
Lui chơn ra khỏi cho mau,
Tìm trong lánh đục tẩu đào mới ngoan.

Theo ta đến chốn Tiên-bang,
Đặng coi các nước hội hàng Năm-Non.

Đạo Phật vốn ngàn xưa rạng tỏ,
Nay lu-lờ bị mõ cùng chuông,
Thấy chúng-sanh đắp Phật bán buôn,
Mà tội lỗi ngàn muôn lao-lý.

Cho đó hiểu nhiều câu huyền-bí,
Rán nghĩ suy bền chí mới mầu.
Dẹp lợi-danh dẹp hết mộng sầu,
Đặng trở lợi với cha cùng chúa.

Nếu chẳng lo cũng như lá úa,
Lá úa vàng nó rụng người ôi!
Ngàn năm mới có một đời,
Tới chừng lập hội Phật-Trời xử phân.

Ai muốn gần bệ ngọc các lân,
Thì phải rán lập thân nuôi chí.
Ta cho đó ít câu hữu lý,
Diệt tâm trần lập chí hiền-nhơn.

Đục trong đà tỏ nguồn cơn,
Lời ta khuyên đó như đờn Bá-Nha.
Mặc ai biếm nhẻ gần xa,
Lòng ta ta biết ai mà mặc ai.

Đây khuyên đó đắng cay rán chịu,
Mặc người trên bận-bịu chẳng phê.
Muốn cho thân vượt khỏi lề,
Cắm sào trì chí một bề lo tu.

Kim ngọc nan tri tường đông hải,
Phật tà phàm tục tất nan tri.
Ẩn xác phàm phu gìn Thích-đạo,
Mặc tình thế sự chúng khinh-khi.

Mấy kẻ tu mi tròn nhơn đạo,
Hiền nhơn thức tỉnh kiến huyền-vi.
Ngay thẳng hiếu trung trang hiền thảo,
Kim thời bá-tánh gọi ngu-si.

Nợ thế đền xong mong giai lão,
Hiền thần hiếu nghĩa đáng nên ghi.
Lâm sầu mộng ở trong trần thế,
Việc tu hành như ế chợ đông.

Mãng lo danh lợi não-nồng,
Chữ tu để dạ chớ hòng lợt phai.
Mặc tình ai gièm-pha tai tiếng,
Sửa tâm lành như miếng hoa thơm.

Đến chừng hoa nở nhụy đơm,
Thì là trần-thế mới hờm bẻ hoa.
Câu đạo-lý thiệt tường thiệt tận,
Khuyên dương-trần bớt giận đừng gây.

Kia kia súng nổ trời Tây,
Đến năm Thân-Dậu tai đầy sấm vang.
Hung-đồ với lũ dọc ngang,
Đến sau rơi máu khắp tràng mới tu.

Thấy đạo-lý còn lu chưa tỏ,
Dân ganh hiền ghét ngõ làm chi?
Buồn đời xuống bút làm thi,
Thương dân chịu chữ cố lỳ dạy dân.

Nào nào dân có biết ân,
Mạnh rồi tưởng Phật vái Thần làm chi.
Lời châu ngọc khuyên ai để dạ,
Nay gặp người quái lạ tỏ phân.

Hãy mau khuya sớm chuyên cần,
Đặng xem chư-quốc non Tần giành chia.
Nay nhằm lúc đêm khuya lặng-lẽ,
Nhắn ít lời cho kẻ đàng xa.

Phật-nhi tâm tánh thật-thà,
Ông còn phân biệt chánh tà nữa thôi?
Dương-trần thường bạc như vôi,
Gặp cơn bát loạn mới hồi tâm hung.

Lúc áo-não cội thung lo-liệu,
Gắng bền lòng bận-bịu vì ai.

Thất-sơn lộ vẽ đài lầu,
Chừng ni mới thấy nhiệm mầu của ta.

Khuyên bổn-đạo gần xa nuôi chí,
Lẽ nhiệm-mầu huyền-bí nơi đây.
Bây giờ nương bóng cờ tây,
Mượn phần xác thịt tỏ bày thiệt hơn.

Thương sanh-chúng đòi cơn dạ ngọc,
Ta quyết gìn chủng-tộc giang-sơn.
Ta khùng mà chẳng có cơn,
Cũng không có tánh giận hờn bá gia.

Cười rồi khóc thiết-tha liệu-điệu,
Vợ xa chồng bận-bịu thê lương.
Chẳng cần trà, quả, nồng hương,
Miễn cho bá-tánh biết đường chơn tu.

 

Nghe kệ sám như ru giấc mộng,
Lo chê cười hầu họng reo vang.
Ỷ mình nhiều của giàu sang,
Phụ khinh tông-tổ chẳng màng người xưa.

Mặc ý ai ghét ưa ưa ghét,
Lấy tâm thần xem xét thể nao?
Sấm vang thì lộ bảng vàng,
Chư nhu thế-giới khắp tràng tới thi.

Chữ thi gần chữ sầu-bi,
Bị ham của báu ly-kỳ máu rơi.
Chừng đó mới trời ơi đất hỡi,
Mang khổ hình vì bởi chẳng tu.

Ham vui quyền quí dại ngu,
Chữ sang danh vọng như mù đi đêm.
Ta nào có nói thêm cho chúng,
Quá yêu đời viết túng ít câu.

Ít câu mà ý nhiệm sâu,
Nghĩ suy cho cạn mới hầu khôn-ngoan.
Đây sắp đến lầm than khắp chốn,
Việc tu hành đâu tốn tiền chi.

Nầy nầy lời lẽ rán ghi,
Sau đây sẽ thấy việc gì trên mây.
Ta mắc lánh tà-tây đa sự,
Làm Điên-Khùng cũng tự lẽ ni.

Ai là đáng bực tu-mi,
Thương đời ta mới làm thi khuyên đời.
Còn ẩn-nhẫn đợi thời đưa đến,
Nên phải làm kẻ mến người khinh.

Người hiền tâm trí thông-minh,
Người hung cứ mãi chống kình với ta.
Theo học cổ nôm-na ít tiếng,
Làm nhiều điều xao-xuyến nhơn tâm.

Chữ nhu ta học âm-thầm,
Ai là người trí rán tầm cho ra.
Để đến lúc phong-ba biến-chuyển,
Cảnh hồng-trần tợ biển mênh-mông.

Mới là sợ chết ước-mong,
Mà không ai cứu bởi lòng ác-gian.
Tiếng đờn hò liếu cống-xang,
Đêm khuya khuyên-nhủ khắp tràng chúng-sanh.

Chốn Phật-cảnh vắng tanh kẻ tới,
Ta ra đời nên mới đổi thay.
Bởi vì lời lẽ thẳng ngay,
Cho nên chúng nó ghét bài phú thi.

Thấy tăng-chúng sầu bi dạ mỗ,
Kệ khuyên trần nước đổ lá môn.
Khắp cùng làng xóm hương thôn,
Vì khôn quá thế nên tồn lại ngu.

Dạy đạo-đức người tu rạng lý,
Mong cho người hữu chí làm theo.
Không làm thì ắt mang eo,
Làm xong vượt khổ qua đèo chông-gai.

 

H.H. tháng 7 năm Kỷ-Mão

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
100,000